GIỚI THIỆU
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
******
MỤC II
NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
MỤC III SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
MỤC III SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Luật và
luật dân sự - Luật là tập hợp những quy tắc xử sự chung mà
sự tôn trọng (đối với những quy tắc ấy) được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng
chế của bộ máy Nhà nước.
Luật dân sự, trong quan niệm La-tinh, là tập
hợp các quy tắc xử sự chung chi phối các mối quan hệ giữa người và người. Theo
nghĩa đó, thì thoạt trông hầu như không có gì khác biệt giữa luật dân sự và tư
pháp: tư pháp cũng bao gồm các quy tắc xử sự chi phối các mối quan hệ giữa
người và người; trong khi công pháp là tập hợp các quy tắc xử sự chung chi phối
các mối quan hệ trong đó có sự tham gia của Nhà nước, cơ quan Nhà nước, hoặc
nhân viên Nhà nước thi hành công vụ (Luật hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình
sự,...).
Ở La
Mã, luật dân sự (jus civile) là luật
áp dụng đối với các công dân La Mã, phân biệt với luật chung (jus gentium) áp dụng cho tất cả những ai
không có tư cách công dân La Mã.
Vào
thời Trung cổ, người ta gọi luật dân sự là Luật La Mã, phân biệt với luật giáo
hội. Với cách phân biệt đó, thì luật dân sự được hiểu như tất cả những quy tắc
chi phối cuộc sống thế tục của con người, kể cả các quy tắc mà trong quan niệm
hiện đại, được xếp vào nhóm công pháp..
Đến thế
kỷ XV và XVI, người ta bắt đầu không chú ý đến các quy tắc của Luật La Mã liên
quan đến tổ chức bộ máy Nhà nước, và Luật La Mã (luật dân sự) dần dần chỉ còn
được nhớ đến như là tập hợp các quy tắc chi phối các quan hệ giữa người và
người,... là tất cả các quy tắc không thuộc công pháp.
Thế rồi
theo thời gian, các quy tắc riêng chi phối thái độ xử sự của con người trong
những quan hệ đặc thù giữa người và người càng lúc càng phong phú và trở thành
những mảng đặc biệt của Tư pháp, tách ra khỏi luật dân sự để trở thành những
ngành luật độc lập. Ta có: luật thương mại áp dụng cho các hoạt động thương mại
(hành vi thương mại), cho những người thực hiện các hoạt động đó (thương nhân);
luật nông thôn chi phối việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch nông nghiệp và
các hợp đồng thuê đất; luật lao động điều chỉnh các quan hệ giữa người lao động
và người sử dụng lao động;...
Luật dân sự, trong quan niệm của luật Việt Nam
hiện đại, là tập hợp các quy tắc quy định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác), quy định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách
ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự (BLDS năm 1995 - BLDS - Điều
1 đoạn 2)
Ta lần lượt tìm hiểu đối tượng điều chỉnh của
luật dân sự, nguồn của luật dân sự và sự tiến triển của pháp luật dân sự trong
luật Việt Nam.
Dựa vào định nghĩa của luật viết hiện hành, có
thể xác định rằng luật dân sự Việt Nam giải quyết bốn vấn đề lớn: 1 - Chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm những ai ? 2 - Các chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự có những quyền và nghĩa vụ gì ? 3 - Các quyền và nghĩa vụ này
được xác lập như thế nào ? 4 - Luật dự liệu những biện pháp gì để bảo đảm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đó ?
I - Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong
luật thực định bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
1 - Cá
nhân
Là con người cụ thể và đang sống. Cá nhân phải
có hộ tịch rõ ràng, cho phép phân biệt được với cá nhân khác. Mọi cá nhân không
nhất thiết đều có quyền và nghĩa vụ giống nhau, dù tất cả các cá nhân đều bình
đẳng trước pháp luật. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân lệ thuộc
vào kết quả đánh giá năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân đó.
Năng
lực pháp luật - Là
khả năng của cá nhân được hưởng quyền hoặc đảm nhận tư cách người có nghĩa vụ
(BLDS Điều 16 khoản 1). Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi cá nhân được
sinh ra và mất đi khi cá nhân chết (Điều 16 khoản 3). Luật nói rằng mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự
như nhau (Điều 16 khoản 2); song, có khi cá nhân không không thể có một
quyền nào đó mà tất cả những cá nhân khác đều có thể có, như trong trường hợp
người không có quyền hưởng di sản do đã có một trong những hành vi được ghi nhận tại BLDS Điều 646 khoản 1. Ta nói rằng cá nhân có thể
mất năng lực pháp luật ngay khi còn sống trong những trường hợp đặc biệt. Trong
luật thực định Việt Nam, tình trạng mất năng lực pháp luật chỉ tồn tại trong
những trường hợp đặc biệt do luật quy định và chỉ có hiệu lực đối với các quan
hệ phát sinh trong những trường hợp đó. Nói cách khác, không có tình trạng mất
năng lực pháp luật tổng quát: người không có quyền hưởng di sản, trên nguyên
tắc, chỉ không có quyền hưởng đối với một di sản xác định, và bảo tồn khả năng
có quyền hưởng đối với các di sản khác.
Năng
lực hành vi - Là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự (BLDS Điều 18). Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ
được thừa nhận cho những cá nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định:
người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự (Điều 23); người bị
bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của
toà án (Điều 24 khoản 1). Tất cả những giao dịch của người không có hoặc mất
năng lực hành vi dân sự đều chỉ có thể được xác lập thông qua người đại diện.
Ta nói rằng luật có ghi nhận tình trạng không có hoặc mất năng lực hành vi tổng
quát. Tình trạng không có năng lực hành vi tổng quát luôn có tính chất tạm thời
và sẽ chấm dứt sau một thời gian; trong khi tình trạng mất năng lực hành vi
tổng quát có thể kéo dài không thời hạn.
2 -
Pháp nhân
Là một tổ chức tồn tại vì một mục đích nào đó.
Pháp nhân phải có những yếu tố lý lịch cơ bản rõ ràng cho phép phân biệt với cá
nhân các thành viên của nó và với các pháp nhân khác. Pháp nhân có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình: có những
pháp nhân (như quỹ xã hội, quỹ từ thiện) không thể có những quyền và nghĩa vụ
của thương nhân; không pháp nhân nào có thể
có quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật.
3 - Hộ
gia đình
Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan
hệ huyết thống hoặc hôn nhân, có tài sản chung và thực hiện các hoạt động kinh
tế chung. Cũng như pháp nhân, hộ gia đình có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình. Song nội dung năng lực pháp luật
của hộ gia đình được xác định theo những nguyên tắc gần giống với những nguyên tắc
xác định năng lực pháp luật của cá nhân; bởi vậy, hộ gia đình, trên nguyên tắc,
có khả năng có quyền và nghĩa vụ như cá nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ mà
chỉ cá nhân mới có thể có được, như quyền thừa kế theo pháp luật, quyền kết
hôn, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái,...
4 - Tổ
hợp tác
Là tập hợp những người có cùng một nghề nghiệp
trong các lĩnh vực dịch vụ và thủ công nghiệp và quan hệ bè bạn, thầy trò, cùng
góp tài sản để thực hiện chung các hoạt động nghề nghiệp. Tổ hợp tác cũng phải
có các yếu tố lý lịch rõ ràng và có năng lực pháp luật, năng lực hành vi phù
hợp với mục đích tồn tại của mình, như pháp nhân.
II -
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận cho các
chủ thể hai loại quyền dân sự: quyền có tính chất tài sản và quyền không có
tính chất tài sản (còn gọi là quyền nhân thân).
A - Quyền có tính chất tài sản
Là những quyền định giá được bằng tiền, là
quan hệ giữa các chủ thể mà có đối tượng là một giá trị tài sản. Có những quyền
được thực hiện trực tiếp trên một vật cụ thể (gọi là quyền đối vật); có những
quyền tương ứng với những nghĩa vụ mà người khác phải thực hiện (gọi là quyền
đối nhân).
1 -
Quyền đối vật
Các vật mà trên đó quyền đối vật được thực
hiện rất đa dạng; bản thân các quyền đối vật cũng có thể được phân thành nhiều
loại.
a -
Phân loại vật
Ta chỉ ghi nhận một vài cách phân loại tiêu
biểu.
Động
sản và bất động sản - Bất kỳ tài sản nào cũng chỉ có thể hoặc là
bất động sản hoặc là động sản. Luật phân biệt động sản và bất động sản chủ yếu
dựa vào tiêu chí vật lý: bất động sản là tài sản không di dời được (đất, nhà ở,
công trình xây dựng và nói chung, các tài sản gắn liền với đất); động sản là
tài sản di, dời được (bàn, ghế, xe máy,...). Mặt khác, có những động sản được
coi là bất động sản do có công dụng như bất động sản; có những bất động sản
được coi như động sản do chỉ có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự như
động sản.
Vật hữu
hình và vật vô hình - Vật
hữu hình là vật có thể nhận biết được bằng giác quan tiếp xúc: nhà, đồng hồ, xe
máy,... Vật vô hình là ý niệm của luật về những giá trị tài sản phi vật thể
(quyền tác giả, các yếu tố vô hình thuộc sản nghiệp thương mại,...).
Vật
chuyển giao được và vật không chuyển giao được trong giao lưu dân sự - Trên nguyên tắc, các quyền có tính chất tài
sản chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Song, cũng có những quyền có giá
trị tài sản không thể được chuyển giao, do được gắn liền với nhân thân của
người có quyền như quyền được cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp mất sức,...
b -
Phân loại quyền đối vật
Quyền
mà việc thực hiện tác động trực tiếp lên đối tượng -
Thuộc nhóm này có thể kể ra: quyền sở hữu, quyền sử dụng hạn chế bất động sản
liền kề, quyền sở hữu bề mặt, quyền thuê quyền sử dụng đất ở, đất chuyên
dùng,...
Quyền
có đối tượng là giá trị tiền tệ của một hoặc nhiều tài sản cụ thể - Quyền này được xác lập nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện một nghĩa vụ tài sản. Nó có đối tượng là tài sản của người khác và
cho phép người có quyền được yêu cầu xử lý tài sản theo quy định của pháp luật
hoặc theo thoả thuận để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm. Ta có quyền nhận thế
chấp, nhận cầm cố tài sản là những ví dụ tiêu biểu của loại quyền này.
2 -
Quyền đối nhân
Là quyền của một người, được phép yêu cầu một
người khác thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với mình. Đó có thể là nghĩa vụ
làm hoặc không làm một việc hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản.
B - Quyền nhân thân
Quyền
chính trị - Trên nguyên tắc các quyền chính trị của các
chủ thể của quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của công pháp. Song, một
số quyền có ý nghĩa chính trị được liệt kê trong nhóm các quyền nhân thân theo
nghĩa của pháp luật dân sự: quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch,
quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự
do đi lại, cư trú. Mặt khác, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày
29/11/1989 quy định rằng việc giải quyết các khiếu nại liên quan đến danh sách
cử tri được tiến hành trong khuôn khổ thủ tục tố tụng dân sự
và thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân (Điều 10 khoản 6)
Quyền
gia đình - Gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các
quan hệ giữa những thành viên trong gia
đình: quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình,... Các quyền gia đình, trên nguyên tắc, không có
tính chất tài sản; nhưng cũng có những quyền gia đình có tính chất tài sản, như
quyền của vợ, chồng đối với tài sản chung, quyền thừa kế theo pháp luật.
Quyền
nhân thân đúng nghĩa - Các
quyền này rất đa dạng trong luật dân sự: các quyền đối với thân thể (quyền được
bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể); các quyền trong đời sống dân
sự (quyền đối với họ, tên, hộ tịch, quyền kết hôn, quyền ly hôn,...); các quyền
trong quan hệ công (quyền tự do đi lại, cư trú); các quyền được tôn trọng đối
với đời tư (quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư);
các quyền nhân thân của người sáng tạo ra tác phẩm văn chương, nghệ thuật, khoa
học; các quyền trong đời sống kinh tế (quyền tự do kinh doanh);...
III - Xác lập
quyền và nghĩa vụ dân sự
Quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập theo các
căn cứ quy định tại Điều 13 BLDS. Nói chung một quyền có thể được xác lập do
được tạo ra hoặc được chuyển giao, do hiệu lực của một giao dịch hoặc do hệ quả
của một sự kiện pháp lý.
A - Tạo
ra hoặc chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự
Tạo ra
quyền và nghĩa vụ dân sự - Nói
“quyền và nghĩa vụ dân sự được tạo ra”, ta hiểu rằng quyền và nghĩa vụ này xuất
hiện ở chủ thể thứ nhất.
Các quyền nhân thân, nói chung, chỉ có thể
được xác lập do được tạo ra. Có những quyền phát sinh cùng một lúc với người có
quyền: được sinh ra, con người có quyền đối với họ, tên, hộ tịch, có quyền nhận
cha, mẹ. Có những quyền phát sinh sau một sự kiện: quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng được xác lập do hôn nhân; quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ được xác lập do
việc sinh con.
Nhưng các quyền nhân thân của tác giả được để
lại cho người thừa kế. Vậy, cũng có thể có trường hợp quyền nhân thân được xác
lập bằng con đường chuyển giao.
Các quyền có tính chất tài sản cũng có thể
được tạo ra: quyền đối nhân được tạo ra từ hợp đồng hoặc từ một sự kiện pháp lý
nào đó (tai nạn, ly hôn); quyền sở hữu được tạo ra bằng cách chiếm hữu vật vô
chủ, bằng việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai trong nhiều năm; quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra
bằng hoạt động sáng tạo.
Chuyển
giao quyền và nghĩa vụ dân sự - Gọi
là được chuyển giao, các quyền và nghĩa vụ trước đây thuộc về một người, nay
được giao lại cho một người khác. Hầu hết các quyền được xác lập bằng con đường
chuyển giao đều là các quyền có tính chất tài sản: quyền đối nhân được chuyển
giao bằng cách chuyển quyền yêu cầu, chuyển nghĩa vụ; quyền sở hữu được chuyển
giao bằng hợp đồng, thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;...
B - Giao dịch hoặc sự kiện pháp lý
1 -
Giao dịch
Khái
niệm - Giao
dịch là việc bày tỏ ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt một quyền. Người bày tỏ ý chí gọi là bên giao dịch.
Trong trường hợp chỉ có một người bày tỏ ý
chí, ta có giao dịch một bên. Có khi giao dịch một bên cũng được ghi nhận trong
luật Việt Nam, dù có đến hai người bày tỏ ý chí, như khi vợ chồng cùng lập một
di chúc để định đoạt tài sản chung. Song, thông thường, với sự bày tỏ ý chí của
nhiều người, ta có giao dịch nhiều bên. Giao dịch nhiều bên được xác lập, một
khi có sự gặp gỡ (sự thống nhất) ý chí của nhiều người. Bởi vậy, ta còn gọi
giao dịch nhiều bên là sự thoả thuận.
Theo động cơ kinh tế của người bày tỏ ý chí,
ta có giao dịch có đền bù (mua bán, trao đổi) hoặc không có đền bù (tặng cho,
di chúc).
Theo tầm quan trọng của giao dịch, ta có giao
dịch định đoạt và giao dịch quản trị. Bằng giao dịch định đoạt, một quyền có
tính chất tài sản đi ra khỏi khối tài sản của người định đoạt: quyền này có thể
biến mất (tài sản được tiêu dùng) hoặc được chuyển cho người khác (tài sản được
bán, được tặng cho). Bằng giao dịch quản
trị, người giao dịch bảo quản và khai thác lợi ích từ các quyền có tính chất
tài sản của mình (giao kết hợp đồng sửa chữa, bán hoa lợi từ tài sản gốc).
Các
điều kiện để giao dịch có giá trị - Giao
dịch chỉ có giá trị khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 131 BLDS.
a - Điều
kiện phát sinh từ yêu cầu bảo vệ trật tự xã hội và các giá trị của cộng đồng - Mục đích và nội dung của giao dịch không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội (BLDS Điều 131 khoản 2). Mục đích của giao
dịch, suy cho cùng, là động cơ thúc giục đương sự xác lập giao dịch; còn nội
dung của giao dịch có thể được hiểu như đối tượng của giao dịch đó. Pháp luật
và đạo đức xã hội nói trong điều luật là tập hợp các quy tắc pháp lý, quy tắc
đạo đức (được hoặc không được ghi nhận trong luật viết) phải được tuyệt đối tôn
trọng mà không có ngoại lệ. Ví dụ: không thể xác lập hợp đồng mua bán con
người.
b - Điều kiện về hình thức - Để
được công nhận là có giá trị và có thể phát sinh hiệu lực, giao dịch phải được
xác lập dưới một hình thức nào đó phù hợp với quy định của pháp luật (BLDS Điều
131 khoản 4). Trong luật thực định Việt Nam phần lớn các giao dịch quan trọng
đều phải được lập thành văn bản (mua bán, tặng cho, cho vay, cho thuê, thế
chấp, cầm cố,...). Cá biệt, có những giao dịch không những phải được ghi nhận
bằng văn bản mà còn phải bằng một văn bản có hình thức phù hợp với các quy định
cụ thể của luật viết (như di chúc): ta gọi đó là những giao dịch trọng thức.
Một khi việc lập văn bản là điều kiện để giao dịch có giá trị, thì giao dịch
được xác lập mà không có văn bản là giao dịch vô hiệu.
Mặt khác, một số giao dịch còn phải đăng ký
theo quy định của pháp luật. Ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch được người làm
luật xác định tùy theo tính chất, tầm quan trọng của giao dịch đối với các bên
giao dịch cũng như đối với người thứ ba. Có trường hợp việc đăng ký được coi là
điều kiện để giao dịch có giá trị, như khi cầm cố, thế chấp tàu biển (BLHH ngày
30/6/1990, Điều 29); có trường hợp giao dịch có giá trị một khi được xác lập
phù hợp với các quy định của luật, nhưng chỉ phát sinh hiệu lực đối với người
thứ ba kể từ ngày được đăng ký, như trường hợp thế chấp bất động sản (BLDS Điều
347 khoản 2); có trường hợp việc đăng ký giao dịch có tác dụng xác nhận việc
chuyển quyền sở hữu tài sản giao dịch, như trường hợp mua bán, trao đổi các tài
sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu (BLDS Điều 432 khoản 2; Điều 459 khoản
4); có trường hợp hiệu lực của giao dịch chỉ phát sinh, cả đối với hai bên giao
dịch và đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký, như trường hợp tặng cho
các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu (BLDS Điều 462 và Điều 463 khoản 2).
c - Điều
kiện về nội dung - Có
thể coi quy định theo đó, giao dịch không được có mục đích và nội dung trái
pháp luật, đạo đức xã hội, là một trong những điều kiện về nội dung (hiểu theo
nghĩa rộng nhất) để giao dịch có giá trị. Phần lớn các điều kiện về nội dung
được pháp luật dự liệu nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của bên giao dịch. Nói rõ
hơn, ý chí của người giao dịch phải được tôn trọng, nhưng với điều kiện đó phải
là ý chí được bày tỏ bởi một người có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình.
c1. Năng lực của bên giao dịch - Giao
dịch chỉ có giá trị một khi được thực hiện bởi một người có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi. Tình trạng mất năng lực pháp luật, ta đã biết, luôn có
tính chất đặc biệt và chỉ được ghi nhận ở một vài quan hệ được xác định (thường
là các quan hệ trong lĩnh vực gia đình). Người không có năng lực pháp luật
không được phép xác lập giao dịch làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ mà
người đó không thể có.
Ngay những người có năng lực pháp luật không
nhất thiết đều có năng lực hành vi, nghĩa là không nhất thiết có khả năng tự
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà mình có. Trẻ dưới 6 tuổi có năng lực
pháp luật ngang với người đủ 18 tuổi, nhưng mọi giao dịch của trẻ dưới 6 tuổi
đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện thông qua vai trò của người đại diện
(BLDS Điều 23).
c2. Sự tự nguyện của bên giao dịch -
Người bị bệnh tâm thần không thể xác lập giao dịch một cách tự nguyện, bởi ở
người này không hề có ý chí và do đó, không thể có sự bày tỏ ý chí.
Có nhiều trường hợp ý chí tồn tại và được bày
tỏ một cách tự nguyện, nhưng sự tự nguyện không hoàn hảo: người bày tỏ ý chí có
thể chấp nhận xác lập giao dịch do nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc bị đe dọa. Một
khi sự tự nguyện trong việc bày tỏ ý chí không hoàn hảo, thì giao dịch có thể
bị tuyên bố vô hiệu, cũng như trong trường hợp giao dịch được xác lập bởi một
người không có năng lực hành vi.
2 - Sự
kiện pháp lý
Khái
niệm - Sự kiện pháp lý là sự việc có tác dụng tạo
ra, chuyển giao hoặc làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Thông thường, sự kiện
pháp lý có nguồn gốc từ hành vi của con người, cố ý hoặc vô ý: hủy hoại tài sản
của người khác; lái xe không làm chủ được tốc độ, gây tai nạn dẫn đến thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác;... Nhưng sự kiện pháp lý cũng
có thể có nguồn gốc vật chất, tự nhiên hoặc xã hội: sau một thời gian do luật
quy định, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai đối với một tài sản sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản đó; do việc một
người chết, những tài sản của người này được chuyển giao cho người thừa kế,
người được di tặng; do một người con bị tai nạn và trở thành tật nguyền, cha,
mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng người con đó;...
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch
luôn luôn là các quyền và nghĩa vụ mà các bên giao dịch quan tâm, muốn có, tìm
kiếm, trông đợi và đeo đuổi. Trong khi đó, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
sự kiện pháp lý luôn do luật áp đặt, độc lập với ý chí của con người. Ngay cả
khi sự kiện pháp lý có nguồn gốc từ hành vi cố ý của con người, thì các quyền
và nghĩa vụ từ sự kiện đó sinh ra không phải là mục tiêu hành động của người
đó: một người cố tình gây thiệt hại cho người khác không phải với mong muốn trở
thành người có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại. Bởi vậy, có thể gọi
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một giao dịch là nội dung hiệu lực của giao
dịch đó; còn các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một sự kiện pháp lý là nội dung
hệ quả của sự kiện pháp lý đó.
IV - Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự
Nhìn chung, các quy tắc của luật được các chủ
thể của quan hệ pháp luật chấp hành một cách tự giác.
Cá biệt, trong một số trường hợp, chủ thể này
hoặc chủ thể khác đi quá giới hạn mà luật xác định, đối với các quyền của mình
và thế là có sự phản ứng của người bị thiệt hại. Trong một xã hội có tổ chức,
không ai có thể tự thiết lập công lý cho chính mình. Trong trường hợp một người
bị thiệt hại do lỗi của một người khác, luật cho phép người bị thiệt hại yêu
cầu sự can thiệp của quyền lực công cộng để khôi phục các quyền của mình. Đại
diện cho quyền lực công cộng trong việc giải quyết những bất đồng giữa các chủ
thể của quan hệ pháp luật là các toà án; quyền của chủ thể của quan hệ pháp
luật được yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình gọi là quyền khởi kiện. Tổ
chức toà án là đề tài của một nghiên cứu khác. Ở đây ta xem xét một vài vấn đề
chung nhất liên quan đến quyền khởi kiện.
1 -
Khái niệm quyền khởi kiện
Quyền
và quyền khởi kiện -
Quyền khởi kiện, hiểu theo nghĩa rộng nhất là phương tiện sử dụng bởi một người
tự cho rằng mình có một quyền để yêu cầu công lý thừa nhận quyền đó cho mình cũng
như bảo đảm việc người khác tôn trọng quyền đó của mình. Thông thường, bất kỳ
quyền nào cũng được bảo đảm thực hiện bằng quyền khởi kiện. Tuy nhiên, một cách
ngoại lệ:
- Có những quyền mà việc kiện đòi tôn trọng
quyền đó không được thừa nhận. Hầu hết các quyền loại này được bảo đảm thực
hiện bằng đạo đức, bằng ý thức tự giác, bằng lương tâm, chứ không phải bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước. Ví dụ: quyền của con đã thành niên mà không có khả năng
lao động, được cha, mẹ nuôi dưỡng.
- Có những việc kiện không nhằm yêu cầu tôn
trọng một quyền (hoặc ít nhất không trực tiếp nhằm mục đích đó) mà chỉ nhằm bảo
tồn các lợi ích. Ví dụ: quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp quản lý tài
sản của người vắng mặt.
- Có trường hợp quyền vẫn còn, nhưng quyền
khởi kiện lại không còn.Ví dụ: một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai đối với một động sản; sau mười năm, nếu
chủ sở hữu không kiện đòi lại tài sản, thì quyền kiện đòi lại tài sản biến mất;
nhưng nếu người chiếm hữu tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu vào năm thứ
mười một, thì người sau này vẫn có thể tiếp nhận tài sản như là người luôn có
quyền sở hữu đối với tài sản đó, chứ không phải như là người được người khác
chuyển quyền sở hữu tài sản.
2 - Các
loại quyền khởi kiện
Quyền
khởi kiện không có tính chất tài sản - Bao
gồm các quyền khởi kiện liên quan đến những quyền và lợi ích không định giá
được bằng tiền. Tiêu biểu cho nhóm này là những quyền khởi kiện về hộ tịch:
quyền yêu cầu nhận cha, mẹ cho con; quyền yêu cầu nhận con cho cha, mẹ; quyền
kiện xin ly hôn;...
Quyền
khởi kiện có tính chất tài sản - Bao
gồm các quyền khởi kiện nhằm xác lập,
khôi phục hoặc bảo đảm việc thực hiện một quyền đối với một tài sản hay
một quyền tương ứng với một nghĩa vụ tài sản của một người
khác. Có thể kể ra: quyền kiện đòi lại tài sản, quyền kiện đòi bồi thường thiệt
hại;...
Quyền
khởi kiện có tính chất hỗn hợp - Bao
gồm những quyền khởi kiện liên quan cả đến quyền không có tính chất tài sản và
quyền có tính chất tài sản, cả đến quyền đối với một tài sản cụ thể và quyền
tương ứng với nghĩa vụ tài sản của một người khác.
Ví dụ: khi kiện xin nhận con cho cha, mẹ đã
chết, người khởi kiện có thể không chỉ quan tâm đến quyền xác lập quan hệ cha
mẹ-con cái mà còn đến quyền hưởng di sản.
Ví dụ khác: quyền quyền khởi kiện yêu cầu
tuyên bố vô hiệu một hợp đồng mua bán là một quyền khởi kiện có tính chất hỗn
hợp, bởi sự vô hiệu có tác dụng một mặt, làm biến mất các nghĩa vụ tài sản của
hai bên giao kết (nghĩa vụ trả tiền của người mua, nghĩa vụ bảo hành của người
bán,...), mặt khác, khôi phục quyền sở hữu của người bán đối với tài sản bán.
Luật và
tục lệ - Nguồn của luật là nơi mà các quy phạm pháp
luật được tìm thấy. Ta phân biệt hai loại nguồn.
- Nguồn
trực tiếp: là nơi mà các quy phạm pháp luật được tạo ra. Luật dân sự Việt
Nam thừa nhận hai loại nguồn trực tiếp: luật viết và tục lệ.
- Nguồn
diễn dịch và giải thích: là nơi mà các quy phạm pháp luật được phát hiện từ
các kết quả phân tích luật viết. Việc phân tích có thể được thực hiện trong
khuôn khổ các nghiên cứu khoa học: ta có các quy phạm pháp luật là kết quả phân
tích của học thuyết pháp lý. Phân tích cũng có thể được thực hiện trong quá
trình vận dụng các quy tắc của luật viết để tiến hành xét xử: ta có các quy
phạm pháp luật là kết quả của hoạt động xét xử (còn gọi là án lệ). Cuối cùng,
phân tích còn có thể được thực hiện trong quá trình vận dụng luật viết để giải
quyết các vấn đề cụ thể của hoạt động thực hành luật: ta có các quy phạm pháp
luật được rút ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật.
Ở đây, ta chỉ xem xét các nguồn trực tiếp:
luật viết và tục lệ.
A - Luật viết
Khái
niệm - Theo nghĩa chính thức, luật viết được hiểu
như là một quyết định của cơ quan lập pháp (Quốc hội) có chứa đựng các quy phạm
pháp luật.
Theo nghĩa rộng nhất, luật viết là văn bản có
chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Vậy luật viết, với tư cách là nguồn của luật, có thể là các văn bản của cơ quan
quyền lực Nhà nước, cơ quan chấp hành và hành chính, thậm chí, cơ quan xét xử
và cơ quan kiểm sát.
Luật viết luôn có hiệu lực bắt buộc thi hành.
Song có luật luôn phải được bắt buộc thi hành; có luật chỉ phải được bắt buộc
thi hành, nếu các chủ thể của quan hệ pháp luật không bày tỏ ý chí khác đi. Ta
tạm gọi loại luật thứ nhất là luật mệnh lệnh, loại luật thứ hai là luật bổ khuyết.
Luật
mệnh lệnh - Bao gồm các quy phạm do người làm luật chủ
động thiết lập nhằm chi phối các quan hệ pháp luật nhất định theo các tiêu chí
chung. Các chủ thể của quan hệ pháp luật liên quan có trách nhiệm xử sự phù hợp
với các quy định của luật mệnh lệnh mà không có sự lựa chọn nào khác. Ví dụ:
việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (BLDS Điều 347 khoản 1); vậy,
nếu các bên xác lập giao dịch thế chấp bằng miệng, thì việc thế chấp không có
giá trị.
Luật bổ
khuyết - Bao gồm các quy phạm do người làm luật
thiết lập và được áp dụng bắt buộc và đương nhiên, trong trường hợp chủ thể của
quan hệ pháp luật liên quan không chủ động bày tỏ ý chí về việc xác định thái
độ xử sự của mình theo cách khác. Luật bổ khuyết rất cần thiết trong chừng mực
nó được coi như sự suy đoán của người làm luật về nội dung của ý chí không được
bày tỏ hoặc được bày tỏ không rõ ràng của các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nó
có tác dụng tạo ra các chuẩn mực xử sự chung mà dựa vào đó, cơ quan giải quyết
tranh chấp đánh giá mức độ nghiêm chỉnh của bên này hay bên kia trong việc thực
hiện giao dịch. Ví dụ: trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên thế
chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác (BLDS Điều 359).
Hiệu
lực của luật trong thời gian - Khác
với nhiều hệ thống luật phương Tây, luật viết ở Việt Nam không chỉ được áp dụng
đối với các tình huống pháp lý xảy ra sau ngày luật có hiệu lực. Trong trường
hợp cần thiết, người làm luật có thể quyết định việc áp dụng luật cho các tình
huống xảy ra trước đó. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, các nguyên tắc cơ bản
trong luật hiện hành về áp dụng luật viết trong thời gian được ghi nhận tại
Nghị quyết của Quốc hội ngày 28/10/1995 về việc thi hành BLDS (Nghị quyết chỉ
nói về việc áp dụng luật đối với các giao dịch; song ta có thể mở rộng phạm vi
áp dụng của Nghị quyết ra đến tất cả các tình huống trong đó tồn tại quan hệ
pháp luật dân sự, dù quan hệ có nguồn gốc từ một giao dịch hay một sự kiện pháp
lý).
Ta có hai nguyên tắc lớn và hai ngoại lệ được
thừa nhận, sau đây:
1 - Nguyên
tắc tôn trọng luật mệnh lệnh và các chuẩn mực đạo đức được thiết lập tại BLDS - Với nguyên tắc này, tất cả các tình huống
pháp lý, dù xảy ra trước hay sau khi BLDS có hiệu lực, đều chịu sự chi phối của
Bộ luật này, một khi việc áp dụng các quy định trước đây dẫn đến những giải
pháp trái với tinh thần của các quy tắc mang tính trật tự công cộng được thiết
lập trong BLDS.
Ví dụ: một người chết vào năm 1991, để lại một
di chúc truất quyền hưởng di sản của một người con đã thành niên, không có khả
năng lao động nhưng không túng thiếu. Theo Pháp lệnh thừa kế năm 1990, việc
truất quyền hưởng di sản trong trường hợp này có giá trị; còn theo BLDS năm
1995, việc truất quyền này vô hiệu, do vi phạm quy định mang tính trật tự công
cộng về quyền thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc của con đã thành niên mà
không có khả năng lao động (dù không túng thiếu), được thiết lập tại Điều 672
BLDS.
2 -
Nguyên tắc mở rộng phạm vi áp dụng BLDS trong chừng mực có thể được - Tất nhiên, các tình huống pháp lý xảy ra sau
khi BLDS có hiệu lực sẽ chịu sự chi phối của BLDS. Đối với các tình huống xảy
ra trước ngày BLDS có hiệu lực thì cần
phân biệt:
a - Nếu việc áp dụng pháp luật có hiệu lực ở
thời điểm tình huống xảy ra dẫn đến những giải pháp phù hợp với các quy định
của BLDS, thì các giải pháp ấy coi như được xây dựng trên cơ sở áp dụng BLDS.
b - Nếu việc áp dụng pháp luật có hiệu lực ở
thời điểm tình huống xảy ra dẫn đến những giải pháp không phù hợp với các quy
định của BLDS nhưng không vi phạm điều cấm và không trái với đạo đức xã hội
theo quy định của BLDS, thì được áp dụng pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tình
huống xảy ra để xử lý tình huống đó.
3 -
Ngoại lệ - Có hai ngoại lệ.
a - Không áp dụng BLDS đối với các giao dịch
về nhà ở xác lập trước ngày 1/7/1991 (ngày có hiệu lực của Pháp lệnh nhà ở ngày
26/3/1991) - Các giao dịch này được đặt dưới sự chi phối của những quy định
riêng, được ghi nhận tại Nghị quyết ngày 24/8/1998 của Quốc hội.
b - Áp dụng bắt buộc các quy định của BLDS về
chuyển quyền sử dụng đất kể từ ngày có hiệu lực của Luật đất đai năm 1993.
B - Tục lệ
Khái
niệm - Tục lệ, cách diễn đạt rút gọn cụm từ “phong
tục, tập quán” dùng trong BLDS, có thể được định nghĩa như là các quy tắc xử sự
chung hình thành từ cách cư xử được lặp đi lặp lại trong thực tiễn giao dịch và
trở thành thói quen được dân cư chấp nhận và tôn trọng như các quy phạm pháp
luật.
Sự đa
dạng của tục lệ - Tục lệ được hình thành một cách tự phát từ
cuộc sống; nó mang đậm dấu ấn của môi trường nơi mà nó được sinh ra và tương
ứng với tính cách của con người sống trong môi trường đó. Môi trường, con người
khác nhau có đặc điểm, tính cách không giống nhau. Bởi vậy, tục lệ rất đa dạng,
ngay trong lĩnh vực dân sự.
1 - Tục
lệ phổ quát - Là những quy tắc xử sự được chấp nhận đối
với tất cả mọi người, không phân biệt dân tộc, quốc tịch. Tục lệ được thừa nhận
có giá trị phổ quát, một khi tính hợp lý, hợp tình của nó không thể bị tranh
cãi. Ví dụ: không ai tiến hành thủ tục cưỡng chế việc trả nợ trong lúc đang
diễn ra tang lễ của người mắc nợ.
2 - Tục
lệ chung - Là những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một
nước. Ví dụ điển hình nhất về loại tục lệ này ở Việt Nam là các tục lệ liên
quan đến tên họ: trong trường hợp con sinh ra có đủ cha, mẹ và khi khai sinh,
người khai không có yêu cầu gì đặc biệt, thì viên chức hộ tịch sẽ tự động ghi
cho đứa trẻ mang họ cha.
3 - Tập
quán địa phương - Là
những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một địa phương, một vùng thuộc một nước,
thể hiện tính đặc thù trong nếp sinh hoạt của cộng đồng người ở vùng, địa
phương đó, nếp sinh hoạt phù hợp với vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên và hoàn
cảnh kinh tế của vùng, địa phương. Ví dụ: ở rất nhiều vùng, cô dâu được gia
đình chú rể tặng một đôi hoa tai nhân lễ đính hôn hoặc lễ cưới; hoa tai được
coi là tài sản riêng của người vợ, nghĩa là không được tính vào khối tài sản
chung của vợ, chồng để chia, một khi chế độ tài sản của vợ, chồng được thanh
toán (do ly hôn, do vợ hoặc chồng chết,..).
4 - Tập
quán nghề nghiệp - Là
những quy tắc xử sự được chấp nhận trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp.
Điển hình nhất là các quy tắc liên quan đến bí mật nghề nghiệp.
5 - Quy
ước - Là những tập quán, được chấp nhận trong
phạm vi một địa phương hoặc một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, chi phối các quan
hệ kết ước được xác lập ở địa phương đó hoặc giữa những người có cùng nghề
nghiệp đó. Quy ước thường có tác dụng xác định những nghĩa vụ
phụ tiềm ẩn hoặc những thỏa thuận mặc nhiên không được ghi nhận trong hợp đồng.
Tham gia kết ước, bên này coi như bên kia đã biết và mặc nhiên thừa nhận sự
ràng buộc của những quy ước đó đối với quan hệ kết ước giữa hai bên mà không
cần phải bày tỏ ý chí một cách rành mạch. Ví dụ: ở một vài địa phương tại Nam
bộ, khi giao kết việc mua bán một chục xoài hoặc một chục cam, các bên đều ngầm
hiểu rằng hợp đồng mua bán có đối tượng là mười bốn trái xoài hoặc mười sáu
trái cam chứ không phải chỉ mười trái xoài hoặc cam.
Quan hệ
giữa luật viết và tục lệ - Ta
biết rằng trong lĩnh vực dân sự, tục lệ được thừa nhận là một trong những nguồn
của luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp luật viết phải được ưu tiên áp dụng;
chỉ khi nào luật viết không đầy đủ hoặc không rõ nghĩa, thì tục lệ mới được sử
dụng như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết.
Nguyên tắc này dẫn đến các hệ quả sau đây:
1 - Hệ
quả thứ nhất: trong trường hợp tục lệ trái với luật viết, thì tục lệ phải
bị loại bỏ - Luật viết ở đây phải là luật mệnh lệnh:
luật bổ khuyết có thể bị tục lệ lấn át, một khi người giao dịch thường xuyên
bày tỏ ý chí phù hợp với tục lệ. Về mặt lý thuyết, một khi người làm luật tuyên
bố rằng một quy phạm nào đó phải được bắt buộc áp dụng và chủ thể quan hệ pháp
luật không thể bày tỏ ý chí ngược lại, thì các tục lệ trái với quy phạm đó phải
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tục lệ trái với
luật mệnh lệnh vẫn được duy trì và, sau một thời gian, lại đẩy luật mệnh lệnh vào tình
trạng không hữu hiệu, cuối cùng, bị loại bỏ. Ví dụ: Luật đất đai năm 1987
nghiêm cấm việc mua bán, sang nhượng đất (Điều 5); nhưng người dân, theo thói
quen, vẫn mua bán, sang nhượng đất mà Nhà nước không kiểm soát được; đến năm
1993, Luật đất đai mới thừa nhận rằng người sử dụng đất quyền chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trong khuôn khổ pháp luật.
2 - Hệ
quả thứ hai: tục lệ có giá trị như luật viết, trong trường hợp được thừa
nhận như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết - “Có giá trị như luật viết” nghĩa là sự tôn
trọng đối với tục lệ, nếu cần, cũng được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế
của bộ máy Nhà nước.
Quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt
Nam có thể được chia thành ba giai đoạn.
A Giai đoạn của luật cổ
Khái niệm pháp luật dân sự, được xây dựng
trong luật cận đại và luật hiện đại Việt Nam, không tồn tại trong luật cổ. Các
quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân và cá nhân trong
xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các chương về hình sự, hành chính liên quan
đến hôn nhân, gia đình và ruộng đất.
Pháp luật trước thời Lê chỉ còn có thể được
hình dung thông qua sách sử, các tài liệu chuyên môn về luật đều đã thất lạc
hoặc bị tiêu hủy. Một số dữ kiện trong sách sử cho phép suy đoán về sự tồn tại
của các quy tắc xử sự chung chi phối các quan hệ gia đình, tài sản, nghĩa vụ và
hợp đồng. Mọi suy đoán đều không chắc chắn.
Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng
và hoàn thiện với sự quan tâm đặc biệt. Bộ Quốc triều hình luật đã dành hẳn hai
chương - Hộ hôn và Điền sản - để nói không chỉ về hôn nhân,
gia đình và ruộng đất, mà còn cả về chế độ tài sản của vợ, chồng, thừa kế, tặng
cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng,... không kể các quy định có liên
quan đến quan hệ pháp luật dân sự nằm rải rác ở các chương khác hoặc trong các
văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật. Nói chung, mặc dù chịu ảnh
hưởng của văn hóa pháp lý Trung Quốc, người làm luật thời Lê vẫn nhận ra những
đặc điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã xây dựng được nhiều quy tắc
pháp lý thể hiện tính độc đáo của pháp luật dân sự Việt Nam, nhất là những quy
tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ, chồng và thừa kế.
Đến thời Nguyễn, luật viết lại trở về với thân
phận chư hầu của Trung Quốc. Nói riêng về luật dân sự, Bộ luật Gia Long hầu như
chỉ lấy lại câu chữ của các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Thực
ra, người làm luật nhà Thanh, cũng như người làm luật thời trước đó ở Trung
Quốc, không có ý niệm gì về luật dân sự: đối với luật, ngoài các quan hệ trong
nội bộ gia đình, con người chỉ có các quan hệ với quyền lực công cộng. Sao chép
luật nhà Thanh, Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự
như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự.
Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời Nguyễn có bổ sung
một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, nghĩa vụ và hợp đồng, hôn
nhân và gia đình; nhưng đó chỉ là những bổ sung rất vụn vặt, không ảnh hưởng
đến những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này.
B -
Giai đoạn của luật cận đại
Luật
dân sự Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp - Cùng
với việc xây dựng và củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ lực
La tinh hóa hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, luật
Việt Nam thời kỳ thuộc địa được xây dựng theo khuôn mẫu luật của Pháp, có cải
biên cho phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Về
luật viết, có một số văn bản đáng chú ý: dân luật giản yếu (1883) áp dụng tại
Nam kỳ; Sắc lệnh ngày 21/7/1925 về chế độ điền thổ cũng áp dụng tại Nam Kỳ;
BLDS Bắc (1931); BLDS Trung (1936, 1938, 1939); Sắc lệnh ngày 21/2/1921 về
thương mại, áp dụng tại Bắc và Nam Kỳ; Bộ thương luật Trung (1942);... Theo
kiểu Pháp, luật viết thường chỉ ghi nhận những quy phạm mang tính nguyên tắc và
được bổ khuyết bằng các giải pháp được xây dựng trong học thuyết pháp lý và án
lệ. Bên cạnh đó, tục lệ đóng vai trò của một nguồn quan trọng của luật, nhất là
tại Nam Kỳ, nơi mà cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một BLDS
hoàn chỉnh (dân luật giản yếu năm 1883 chỉ đề cập đến các vấn đề về nhân thân,
tương ứng với quyền 1 BLDS Pháp, không đả động gì đến các quan hệ tài
sản).
C. Giai đoạn của luật hiện đại
Người làm luật xã hội chủ nghĩa luôn dành sự
quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do phải tập
trung thì giờ và công sức, trí tuệ cho chiến tranh cũng như cho việc giải quyết
các hậu quả của chiến tranh, người làm luật chỉ có thể đầu tư đúng mức cho luật
học dân sự khoảng mươi năm trở lại đây.
Từ 1945
đến những năm 1980 - Trong
những năm đầu kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người làm
luật chấp nhận duy trì hiệu lực của hệ thống luật cũ trừ các quy định “trái với
nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa” (Sắc lệnh số 47
ngày 10/10/1945, Điều 12). Với chủ trương đó, gần như toàn bộ hệ thống pháp
luật dân sự (lúc đó gọi là luật hộ) được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa vẫn
giữ nguyên giá trị.
Đến năm 1950, trước yêu cầu cấp bách của việc
xoá bỏ các tàn tích của chế độ phong kiến trong lĩnh vực dân sự, người làm
luật, trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đã nỗ
lực vượt qua mọi khó khăn để bắt tay vào việc xây dựng hệ thống pháp luật dân
sự xã hội chủ nghĩa. Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của thời kỳ này
là việc ban hành Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế
định trong dân luật. Sắc lệnh ghi nhận một số nguyên tắc lớn liên quan đến nhân
thân và tài sản: quyền nhận cha, mẹ, quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của
người phụ nữ so với nam giới, nguyên tắc bảo vệ kẻ yếu trong quan hệ hợp đồng,
quyền thừa kế,...
Pháp luật cũ không còn được dùng làm căn cứ
cho việc xét xử của các toà án kể từ năm 1957 theo Chỉ thị số 772/TATC ngày
10/7/1957 của Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chiến tranh và những khó
khăn của thời kỳ đầu sau chiến tranh, giao lưu dân sự không phát triển; bởi
vậy, từ đó cho đến những năm đầu thập niên 80, hầu như không có văn bản nào
chứa đựng có hệ thống các quy định về dân sự được ban hành. Riêng toà án nhân
dân tối cao, trong điều kiện quá thiếu công cụ để xử lý các tranh chấp liên
quan đến việc thanh toán di sản (một loại giao dịch mà gần như bất kỳ người nào
cũng có lúc phải xác lập), đã đúc kết các kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử và
tham khảo các giải pháp trong luật so sánh, để xây dựng một văn bản mang tính
quy phạm về thừa kế áp dụng tạm (chủ yếu trong các toà án) trong lúc chờ đợi có
luật viết.
Từ
những năm 1980 đến nay - Với
chính sách kinh tế thị trường, bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy của cải trong
khu vực tư nhân được khuyến khích và, như là một hệ quả tất yếu, lưu thông dân
sự phát triển nhanh. Nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng
trở nên rất phong phú và đa dạng trong dân cư, Nhà nước đã xây dựng trong thời
gian ngắn hàng loạt quy phạm pháp luật dân sự, được ghi nhận trong nhiều văn
bản lập pháp và lập quy: Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật đất đai năm
1987; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987; Luật quốc tịch năm 1988;
các Nghị định số 27, 28, 29 ngày 9/3/1998 và số 170 ngày 14/11/1988 về kinh tế
ngoài quốc doanh; các Nghị định số 85 ngày 13/5/1988, số 200 và 201 ngày
28/12/1988 về sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ năm 1988;
Pháp lệnh sở hữu công nghiệp năm 1989; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989;
Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Pháp lệnh nhà ở và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm
1991; Luật đất đai năm 1993; Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994;...
Những kinh nghiệm từ việc áp dụng các văn bản
nói trên đã được đúc kết; những nghiên cứu mang tính học thuật về di sản pháp
luật dân sự Việt Nam, về tục lệ truyền thống, về luật so sánh,... cũng được
thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương, song song với việc áp dụng các
văn bản này. Toàn bộ kết quả của những việc đó, cùng với các dự báo về khả năng
phát triển của các quan hệ dân sự trong xã hội Việt Nam, đã đặt cơ sở cho việc
xây dựng và hoàn thiện dự án BLDS Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày
28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1996. Có thể nói rằng cho đến
lúc này BLDS là thành tựu lớn nhất của năm mươi năm xây dựng hệ thống pháp luật
dân sự Việt Nam hiện đại. Dù còn khá đơn giản và còn phải tiếp tục được sửa
đổi, bổ sung BLDS đã xác định những nguyên tắc lớn nhất tạo thành tinh thần của
pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại, sẽ luôn được quán triệt trong quá trình
phát triển đi tới hoàn thiện của luật học dân sự.
A. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Để quản lí xã hội bằng pháp luật và không
ngừng nâng cao tính thực thi của các văn bản pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật
ngày càng hoàn chỉnh, phản ánh tốt hơn đường lối của Đảng trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với
mục tiêu đó, động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người,
đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm
năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc; động
viên và tạo mọi điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường,
cần kiệm xây dựng tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Trong đó,
mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu
nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, điều chỉnh
các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Trong đó, mỗi ngành luật điều chỉnh những
nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những nhóm quan hệ xã hội do một ngành luật điều
chỉnh được gọi là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, Nhà nước sử dụng các biện pháp tác động khác nhau, hướng cho
các quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của Nhà
nước. Phương pháp tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội có những đặc thù
khác nhau phụ thuộc vào các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật.
I. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA
LUẬT DÂN SỰ
Đối tượng điều chỉnh của luật
dân sự là những nhóm quan về
nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động (Điều 1 Bộ luật dân sự -
BLDS năm 2005). Với quy định này, luật dân sự nói chung và BLDS năm 2005 nói
riêng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư và
trở thành luật chung có thể được áp dụng trong các lĩnh vực dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Trong trường hợp các văn bản pháp luật chuyên biệt không
quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đó thì các
quy định của BLDS năm 2005 sẽ điều chỉnh.
1. Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản là quan hệ
giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn
với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.
Tài sản (được khái quát chung
ở Điều 163 BLDS năm 2005) bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản. Quan niệm về tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật
vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến
một tài sản.
Tài sản không chỉ bao gồm vật
thuộc về ai, do ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà còn bao gồm cả việc dịch
chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác, quyền yêu cầu của một
hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng với các quyền yêu cầu đó của một hay
nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là tài sản. Quan hệ tài
sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên các quan hệ đó bao
gồm: chủ thể tham gia, khách thể được tác động và nội dung của các quan hệ đó.
- Quan hệ tài sản phát sinh
giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, phân
phối, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ trong xã hội.
Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp với quan hệ sản
xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại không phụ thuộc vào ý
chí của con người mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách quan.
Nhưng những quy luật này được nhận thức và phản ánh thông qua những quy phạm
pháp luật lại mang tính chủ quan chủ quan - ý chí của giai cấp thống trị phản
ánh sự tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể tham gia
vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục đích và với động cơ nhất
định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia mang ý chí của các chủ
thể, phù hợp với ý chí của các chủ thể tham gia và phải phù hợp với ý chí của
Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các quy phạm
pháp luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế, hướng cho các quan hệ này
phát sinh, thay đổi theo ý chí của Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước
thông qua các quy phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định
hướng cho các quan hệ tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù hợp với những
quy luật khách quan của sự phát triển thì sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Có thể
nói rằng quan hệ tài sản là biểu hiện ý chí của chủ thể, của nhà nước về quan
hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay,
khi chúng ta đang xây dựng và hình thành
nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và hình thức kinh doanh
thì việc xác định các quan hệ tài sản phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một định hướng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ nền sản xuất xã hội.
- Quan hệ tài sản do luật dân
sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa và tiền tệ. Định hướng chiến lược của
nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992). Trong
mô hình kinh tế này, các tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hóa và được quy
thành tiền. Sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc trưng
của nền sản xuất này. Nó tạo động lực cho mọi cá nhân và tổ chức, khơi dậy mọi
tiềm năng của họ, phát huy ý chí tự lực, tự cường ra sức làm giàu cho mình và
cho đất nước. Nhưng nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường cũng có những
mặt trái của nó (cạnh tranh không lành mạnh, phân hoá giàu nghèo…). Cho nên,
khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự kỉ cương
trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan
hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh
với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Bởi vậy, cần phải có hành lang pháp lí vừa
mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Hơn
nữa chúng ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, do vậy
pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng còn phải tương thích với pháp
luật của các nước trên thế giới và trong khu vực.
- Quy luật của nền kinh tế thị
trường trong sản xuất xã hội chi phối các quan hệ tài sản mà một trong các biểu
hiện của nó là quan hệ tiền - hàng. Sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế thị trường chủ yếu thông qua hình thức tiền - hàng. Khái niệm hàng hóa
càng ngày càng được mở rộng cùng với sự chuyên môn hóa của nền sản xuất, cùng
với sự phát triển của khoa học - kĩ thuật và quan niệm xã hội về các đối tượng
trao đổi.
- Sự đền bù tương đương trong
trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hóa và tiền tệ, là đặc trưng của quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài sản, dịch vụ
đều có sự đền bù tương đương như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác phẩm văn
học nghệ thuật... Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản và không
phổ biến trong trao đổi; nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà còn bị
chi phối bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, phong tục...).
2. Quan hệ nhân thân
Cùng với quan hệ tài sản, luật
dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS năm 2005). Quan hệ
nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân
hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải được
pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền
nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều
có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Các quyền nhân thân được nhiều
ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác
định các quyền nhân thân như: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng
thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh... Luật hình sự bảo
vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những hành vi nào khi xâm phạm đến
những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: Vu khống, làm
nhục người khác, làm hàng giả...).
Luật dân sự điều chỉnh các quan
hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền
nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời
quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều 25 BLDS năm
2005).
Các quan hệ nhân thân xuất
phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể chia làm hai nhóm:
- Quan hệ nhân thân gắn với
tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn
với tài sản.
Những quan hệ nhân thân do
luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:
- Quyền nhân thân luôn gắn
liền với một chủ thể nhất định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể
khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch chuyển.
Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định (quyền công bố tác phẩm
của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp...).
- Quyền nhân thân không xác
định được bằng tiền - Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại
lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân, danh dự, uy tín của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi
họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh; với
bí mật đời tư; quyền kết hôn, li hôn… (từ Điều 24 đến Điều 51 BLDS).
Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy
định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá
trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm
phạm. Khi quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính,
yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính công khai; tự
mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu người vi phạm
hoặc yêu cầu toà án buộc người vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp
những tổn thất về tinh thần.
Các quan hệ nhân thân gắn với
tài sản là những giá trị nhân thân khi được xác lập làm phát sinh các quyền tài
sản. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có những sự
kiện pháp lí nhất định như tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
kĩ thuật; quyền tác giả các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp... được hưởng tiền nhuận bút; thù lao; được hưởng tiền do áp dụng các
đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên.
II.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật không tạo ra các
quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cơ chế điều chỉnh các quan
hệ xã hội rất phức tạp bao gồm một hệ thống cơ quan, tổ chức sử dụng các biện
pháp, cách thức tác động vào hành vi của các chủ thể, định hướng cách xử sự của
các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Tùy theo các nhóm quan hệ xã hội cần
điều chỉnh mà Nhà nước lựa chọn các biện pháp tác động khác nhau lên các quan
hệ đó.
Phương pháp điều chỉnh của
luật dân sự là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước tác động lên các quan hệ
tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi,
chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với ba lợi ích (nhà nước, xã hội và cá
nhân).
Luật dân sự điều chỉnh các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân theo nghĩa rộng bao gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động trong nền kinh tế thị trường. Ở đó, các cá nhân, tổ chức
không phụ thuộc vào hình thức sở hữu, hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh,
hợp tác và cạnh tranh với nhau.
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có
những đặc điểm sau:
- Các chủ thể tham gia các
quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh độc lập về
tổ chức và tài sản, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lí. Độc lập về tổ chức và
tài sản là tiền đề tạo ra sự bình đẳng trong các quan hệ mà các chủ thể tham
gia. Bởi các quan hệ tài sản mà luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa
- tiền tệ và đền bù tương đương là đặc trưng khi trao đổi. Nếu không độc lập về
tài sản và bình đẳng về địa vị pháp lí thì sẽ không tạo ra sự đền bù tương
đương. Sự bình đẳng và độc lập được thể hiện ngay cả trong trường hợp các chủ thể
có các mối quan hệ khác mà họ không bình đẳng (trong quan hệ hành chính, lao
động...) và chính sự bình đẳng, độc lập của các chủ thể mới tạo được tiền đề
cho sự tự định đoạt sau này.
- Tự định đoạt của các chủ thể
trong việc tham gia các quan hệ tài sản. Khi tham gia vào các quan hệ tài sản,
mỗi chủ thể đều đặt ra những mục đích với những động cơ nhất định. Bởi vậy,
việc lựa chọn một quan hệ cụ thể do các chủ thể tự quyết định, căn cứ vào khả
năng, điều kiện, mục đích mà họ tham gia vào các quan hệ đó. Khi tham gia vào
các quan hệ cụ thể, các chủ thể tùy ý theo ý chí của mình lựa chọn đối tác sẽ
tham gia, nội dung quan hệ mà họ tham gia, cách thức, biện pháp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ. Trong nhiều trường hợp, các chủ thể có thể tự đặt ra các
biện pháp bảo đảm, hình thức và phạm vi trách nhiệm, cách thức áp dụng trách
nhiệm khi bên này hay bên kia không thực hiện hay thực hiện không đúng thoả
thuận.
Tuy nhiên, việc tự định đoạt
của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ không đồng nghĩa với tự do, tùy
tiện trong việc tạo lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ đó. Đặc điểm chung các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là đa dạng, phức tạp. Bởi vậy, các quy
phạm pháp luật không thể dự liệu hết được các quan hệ đang tồn tại và phát
triển. Cho nên, pháp luật đưa ra những giới hạn, vạch ra những hành lang an
toàn, cần thiết, trong đó các chủ thể có
quyền tự do hành động. Giới hạn đó được xác định bởi các nguyên tắc được quy
định trong BLDS và thể hiện rõ nét nhất ở Điều 10 BLDS năm 2005: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác”. Khi vi
phạm nguyên tắc này, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác sẽ bị coi là vi phạm pháp luật dẫn đến hậu quả pháp lí, phải bồi thường
thiệt hại. Quyền tự định đoạt của chủ thể bị hạn chế bởi hành lang pháp lí do
pháp luật quy định. Cam kết, thoả thuận là tự nguyện nhưng sau khi đã tự nguyện
cam kết, thoả thuận các chủ thể buộc phải tham gia
vào quan hệ dân sự đó. Mặt khác, trong một số trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi
của một số chủ thể nhất định, pháp luật đã hạn chế quyền tự định đoạt đó (như
quy định về điều kiện chuyển quyền sử dụng đất, về người được hưởng di sản
không phụ thuộc nội dung của di chúc...).
- Xuất phát từ sự bình đẳng
giữa các chủ thể, quyền tự định đoạt của họ khi tham gia các quan hệ dân sự,
cho nên, đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là hòa giải. Đây là nguyên tắc được quy định tại
Điều 12 BLDS - Nguyên tắc hòa giải. Việc thực hiện hay từ chối một quyền tài
sản của các chủ thể thuộc phạm vi tự định đoạt của họ (tuy nhiên, chỉ trong
trường hợp quyền của họ không đồng thời là nghĩa vụ mà pháp luật quy định). Cho
nên, việc giải quyết các tranh chấp dân sự do các bên tự thoả thuận. Nếu không
thể thoả thuận hoặc hòa giải được, toà án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu
của nguyên đơn.
- Các quan hệ mà luật dân sự
điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa và tiền tệ,
việc vi phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại về tài sản
đối với bên kia. Bởi vậy, trách nhiệm dân sự trước tiên là trách nhiệm tài sản.
Trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm và hậu quả của việc áp dụng
trách nhiệm là phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại. Trong quan hệ
dân sự, các chủ thể có quyền tự định đoạt. Cho nên, họ có thể quy định trách
nhiệm và phương thức áp dụng trách nhiệm cùng hậu quả của nó (những thoả thuận
này phải phù hợp với pháp luật). Bởi vậy, trách nhiệm dân sự không chỉ do pháp
luật quy định mà còn do các bên thoả thuận về điều kiện phát sinh và hậu quả
của nó.
III. ĐỊNH NGHĨA LUẬT DÂN SỰ,
PHÂN BIỆT LUẬT DÂN SỰ VỚI CÁC NGÀNH LUẬT KHÁC
Theo truyền thống trong khoa
học pháp lí, một ngành luật được xác định và phân biệt với ngành luật khác căn
cứ vào đối tượng điều chỉnh và các đặc điểm phương pháp điều chỉnh của nó. Dựa
vào đối tượng điều chỉnh và những nét đặc trưng cơ bản của phương pháp điều
chỉnh của luật dân sự có thể định nghĩa luật dân sự như sau:
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam - tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng
hóa-tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ đó.
Việc phân biệt ngành luật này
với ngành luật khác cũng dựa vào đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh
và những đặc điểm của nó.
+ Chúng ta dễ dàng phân biệt
luật dân sự với luật hành chính. Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực điều hành và quản lí nhà nước. Các chủ thể tham gia không bình
đẳng về địa vị pháp lí và không thể thoả thuận trong việc xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ hành chính mà được xác lập dựa trên các quy định của pháp
luật.
+ Luật
hình sự có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng cách quy định những hành vi
nào bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội
đồng thời quy định hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi đó.
Mặc dù việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế do luật hình sự quy định là sự
cưỡng chế của Nhà nước nhưng những biện pháp này trước tiên là trách nhiệm của
cá nhân với xã hội, với Nhà nước nói chung. Chức năng chủ yếu của hình phạt là
trừng phạt và giáo dục; còn trong dân sự, trách nhiệm tài sản trước tiên là
trách nhiệm của chủ thể này đối với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của nó là phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại.
+ Luật dân sự được coi là luật
chung trong lĩnh vực luật tư, bao gồm các quy định liên quan đến quyền lợi của
chủ thể và về nguyên tắc có thể thay đổi bằng sự thoả thuận của các bên. Do sự
phát triển của xã hội cũng như khoa học pháp lí, trên cơ sở của luật dân sự đã
phát triển thêm những lĩnh vực pháp luật khác (như luật thương mại). Trong các
giao lưu dân sự, có những quan hệ được coi là quan hệ thương mại. Đây là những
quan hệ đặc thù được điều chỉnh bởi luật thương mại. Khi điều chỉnh các quan hệ
thương mại, nếu không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng
các quy định của BLDS năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật lao động được tách ra
từ luật dân sự khi sức lao đông trở thành hàng hoá trong xã hội tư bản. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là bản thân quá
trình lao động mà không phải là kết quả của quá trình đó giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Khi các quan hệ lao động không có quy phạm pháp
luật trực tiếp điều chỉnh thì sẽ áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 để điều
chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật hôn nhân và gia đình
được tách ra từ luật dân sự - điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa
vợ - chồng và các thành viên trong gia đình, trong đó quan hệ nhân thân giữa vợ
- chồng là trung tâm, quyết định các quan hệ khác. Các quan hệ tài sản mà luật
hôn nhân và gia đình điều chỉnh giữa các chủ thể không độc lập về tài sản và
không thể áp dụng nguyên tắc đền bù tương đương. Tài sản của vợ, chồng tạo ra
trong thời kì hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản riêng của vợ, chồng và các thành
viên khác trong gia đình. Trong trường hợp không có quy định trong luật hôn
nhân và gia đình, sẽ sử dụng các quy định trong BLDS năm 2005 để điều chỉnh các
quan hệ đó.
+ Luật tố tụng dân sự được coi
là luật hình thức của luật dân sự và luật hôn nhân và gia đình, luật kinh tế,
luật lao động; quy định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Luật tố tụng dan sự điều chỉnh các quan hệ
giữa các chủ thể tham gia tố tụng.
B. NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
1. Khái niệm nguồn của luật dân sự
Nguồn của pháp luật đã được
nghiên cứu trong lí luận chung về nhà nước và pháp luật. Về mặt xã hội học,
nguồn của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đưa lên thành luật mà nội
dung được xác định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế tồn tại trong xã hội
cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống
trị đưa thành luật, thể hiện quan điểm giai cấp về hình mẫu xã hội, trong đó
các quan hệ xã hội nào được điều chỉnh bằng pháp luật và với phương thức nào là
do giai cấp thống trị quy định thông qua hoạt động lập pháp của nhà nước.
Mỗi ngành luật là tổng hợp các
quy phạm pháp luật quy định cách thức xử sự của các chủ thể tham gia vào các
quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Trong điều kiện của
chúng ta hiện nay - Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội " (Điều 4 Hiến pháp năm 1992), là đại biểu trung thành của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự thể chế hóa
đường lối của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đường lối, chủ trương của
Đảng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế hóa bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, "Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ
khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lí mọi mặt đời sống bằng pháp luật”.(1)
Nguồn của luật dân sự hiểu
theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật (hình thức của pháp luật) do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan
hệ nhân thân. Một văn bản được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những
yêu cầu sau đây:
- Văn bản do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành;
- Chứa đựng các quy phạm pháp
luật dân sự;
- Phải ban hành theo trình tự,
thủ tục do luật định.
2. Phân loại nguồn của luật dân sự
Theo nguyên tắc chung, các quy
phạm pháp luật dân sự đều có hiệu lực bắt buộc thi hành. Nhưng căn cứ vào hình
thức của văn bản, cơ quan ban hành và hiệu lực pháp luật của văn bản, nguồn của
luật dân sự có thể được chia thành các loại sau:
- Hiến pháp;
- BLDS;
- Các luật, bộ luật liên quan;
- Các văn bản dưới luật.
a. Hiến pháp
Hiến pháp là đạo luật cơ bản,
đạo luật gốc của một quốc gia, là "xương sống, trụ cột" của hệ thống
pháp luật, là cơ sở xây dựng các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp là đạo luật
cơ bản của hệ thống pháp luật, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, các ngành
luật cụ thể hóa bằng các quy định để tác động tới các quan hệ mà nó có nhiệm vụ
điều chỉnh.
Đối với luật dân sự, Hiến pháp
là một nguồn đặc biệt quan trọng mặc dù Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề
chung nhất của luật dân sự. Hiến pháp năm 1992 quy định những nguyên tắc cơ bản
của chế độ xã hội Việt Nam ở giai đoạn đầu thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương II và Chương V có những quy
định liên quan nhiều nhất đến luật dân sự:
Chương II - Chế độ kinh tế:
Xác định tính chất của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là "Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", xác nhận sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, tư
nhân...
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân: Ngoài những quyền về chính trị - xã hội, Hiến pháp còn xác nhận những
quyền dân sự cơ bản của công dân, đó là quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu
những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế, quyền bình đẳng
về năng lực pháp luật của cá nhân; các quyền nhân thân và quyền tài sản khác...
b. Bộ luật dân sự
BLDS Là nguồn chủ yếu, trực
tiếp và quan trọng nhất của luật dân sự. BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XI kì họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và
được Chủ tịch nước kí lệnh công bố ngày 27/6/2005; có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2006 (BLDS năm 2005 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở BLDS năm 1995 đã qua
đúc rút kinh nghiệm trong 10 năm thi hành và áp dụng BLDS năm 1995) .
Đây là bộ luật lớn nhất của
Nhà nước ta về mọi phương diện: Phạm vi điều chỉnh, thời gian chuẩn bị thông
qua, số lượng điều luật... BLDS đã thể chế hóa Cương lĩnh chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, các nghị quyết của Đảng và cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 nhằm
bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
góp phần giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng
lớp dân cư sống và làm việc theo pháp luật, vì sự nghiệp phát triển đất nước,
vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; xây dựng các chuẩn
mực pháp lí cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm
tăng cường quản lí xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể
hiện truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc ta. BLDS góp phần
hạn chế tranh chấp tiêu cực trong các quan hệ dân sự, bảo đảm dân chủ, công
bằng, ổn định, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, mỗi người vì cộng đồng và cộng
đồng vì mỗi người. Đồng thời, việc ban hành BLDS là thực hiện một bước quan
trọng pháp điển hóa pháp luật dân sự, khắc phục tình trạng tản mạn, không đầy
đủ của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, nhằm phát huy vai trò tác dụng của pháp
luật dân sự trong việc đẩy mạnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng thi hành pháp
luật. BLDS cũng là sự kế thừa và phát triển của pháp luật dân sự của ông cha ta
và những tinh hoa của pháp luật dân sự trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ
thể của chúng ta hiện nay.
Nội dung chủ yếu của BLDS năm
2005: BLDS được kết cấu bởi bảy phần với 777 điều.
Phần thứ I: Những quy định chung được kết
cấu bởi 9 chương với 162 điều.
Nội dung chủ yếu của phần này
là xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2005, địa vị pháp của cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác với tư cách là chủ thể khi tham gia các quan hệ
dân sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, giải quyết các tranh chấp và áp dụng luật
dân sự; quy định các căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của
các quy định cụ thể trong toàn Bộ luật. Ngoài ra còn quy định các quyền nhân
thân của cá nhân như họ tên…, nơi cư trú, tuyên bố chết, quy định về giao dịch
dân sự, về đại diện, thời hạn, thời hiệu.
Những quy
định trong phần này mang tính chất chung, xuyên suốt toàn bộ nội dung của BLDS
và được cụ thể hóa tiếp theo trong tất cả các phần của BLDS nhằm bảo đảm tính
thống nhất về nội dung, tránh tình trạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu.
Phần này gồm 7 chương, 117
điều (từ Điều 163 đến Điều 279), quy định những nguyên tắc cơ bản của quyền sở
hữu, các loại tài sản, các hình thức sở hữu, nội dung quyền sở hữu, các căn cứ
xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Đồng thời chương XVI với
tiêu đề "Những quy định khác về quyền sở hữu" quy định về giới hạn
của quyền sở hữu, những nghĩa vụ của chủ sở hữu khi thực hiện các quyền năng
của mình.
Xuất phát từ vai trò chi phối
của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật, BLDS khẳng định vị trí trung tâm
của chế định quyền sở hữu trong các chế định luật dân sự. Trong mọi xã hội,
phương thức chiếm hữu của cải vật chất và chế độ sở hữu có ý nghĩa quyết định.
BLDS cụ thể hóa quy định về chế độ sở hữu mà Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định,
tạo cơ sở pháp lí cho các quy định cụ thể ở các phần tiếp theo của BLDS và các
văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Những quy định ở phần này thể hiện
tính định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được quyền sở hữu của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác, khuyến khích phát triển tài sản, mở rộng đầu tư và
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
dân sự.
Phần này gồm 5 chương, 351
điều (từ Điều 280 đến Điều 630). Đây là phần có số điều luật lớn nhất của BLDS,
quy định những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự; nguyên tắc xác lập, thực
hiện, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự và trách nhiệm dân sự nói chung và
trách nhiệm dân sự đối với từng loại nghĩa vụ riêng biệt. Với tư cách là căn cứ
chủ yếu, thông dụng và hợp pháp làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự
được quy định tương xứng phù hợp với quy mô của nó, bao gồm những quy
định chung về hợp đồng và một số hợp đồng dân sự thông dụng trong đời sống dân
sự thường ngày.
Nghĩa vụ dân sự là loại quan
hệ dân sự mang tính chất “động”, liên quan đến việc dịch chuyển tài sản, dịch
vụ từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối tượng của nghĩa vụ có thể là tài sản,
một việc phải làm hoặc không được làm. Tài sản và công việc được làm, không
được làm là những đối tượng của nghĩa vụ rất đa dạng, phức tạp, cho nên, các
quy định trong phần này của BLDS chủ yếu là những quy định khung có tính chất
định tính mà không thiên về định lượng. Bởi vậy, các nguyên tắc cơ bản được quy
định là những định hướng cho việc xác lập, thực hiện nghĩa vụ và xuyên suốt
phần này của BLDS. Những nguyên tắc cơ bản đó là:
- Cá
nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng
không trái pháp luật và đạo đức xã hội trên cơ sở bình đẳng với nhau và bình
đẳng trước pháp luật;
- Người có nghĩa vụ dân sự
phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác,
đúng cam kết, không trái pháp luật và đạo đức xã hội;
- Người nào hưởng lợi mà không
có căn cứ thì phải hoàn trả lại;
- Người
nào vi phạm quyền dân sự của người khác thì phải chịu trách nhiệm dân sự, nếu
gây thiệt hại phải bồi thường.
Những nguyên tắc cơ bản và các
quy định trong phần này nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia quan hệ dân sự; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng; góp
phần đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân
sự trong nước cũng như với ngoài nước đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản
xuất nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Phần thứ tư: Thừa kế.
Phần này gồm 4 chương, 57 điều
(từ Điều 634 đến 689) quy định việc dịch
chuyển di sản của người chết cho những người còn sống; về người để lại di sản,
người hưởng di sản; những nguyên tắc của việc dịch chuyển di sản và các trình
tự dịch chuyển di sản; thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. BLDS quy
định những nguyên tắc cơ bản của thừa kế là bình đẳng, quyền tự định đoạt của
người có di sản để lại và của người hưởng di sản. Nhằm bảo vệ quyền tự định
đoạt của người có di sản, Bộ luật quy định về việc thừa kế theo di chúc và các
hình thức của di chúc, quyền của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản
của họ thông qua di chúc. Người thừa kế có quyền nhận hay không nhận di sản
thừa kế, nếu nhận di sản họ phải thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại trong
phạm vi di sản đã nhận. Phần này cũng xác định những trường hợp thừa kế theo
luật, những người thừa kế và các hàng thừa kế; thừa kế thế vị và thừa kế của
những người liên quan. Ngoài ra, còn quy định về trình tự thanh toán di
sản và cách thức phân chia di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Phần thứ năm: Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
Phần này gồm 8 chương, 48 điều
(từ Điều 688 đến Điều 735). Đất đai là loại tài sản đặc biệt thuộc chế độ sở
hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lí. Luật đất đai năm 2003 quy định cá
nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định và có các quyền: chuyển
nhượng, chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, góp vốn, thế chấp và thừa
kế quyền sử dụng đất. Khi quyền sử dụng đất được xác lập theo quy định của luật
đất đai thì các quyền đó là các quyền dân sự đặc thù. Phần thứ năm quy định những
quy tắc chung; những hợp đồng cũng như việc thừa kế quyền sử dụng đất.
Quy định
chung về điều kiện, hình thức, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và cụ thể cho
từng loại chuyển quyền sử dụng đất có những đặc thù riêng. Những quy định về
chuyển quyền sử dụng đất là chế định mới trong luật dân sự. Những quy định này
nhằm bảo vệ quyền của những người có quyền sử dụng đất là cá nhân, hộ gia đình,
phù hợp với các quan hệ thực tế đang tồn tại nhưng cũng bảo vệ quyền lợi của
Nhà nước và sự kiểm soát của Nhà nước đối với loại tài sản đặc biệt này.
Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ, gồm 3 chương, 22 điều (từ Điều 736 đến Điều 757).
Nội dung phần này quy định
những quyền cơ bản của người tạo ra sản phẩm trí tuệ - loại tài sản vô hình; đó là tác phẩm và các đối tượng sở hữu
công nghiệp. Phần này quy định các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả;
quyền của chủ sở hữu tác phẩm; quy định về văn bằng bảo hộ và các quyền nghĩa
vụ của những chủ thể liên quan; quy định về trình tự, thủ tục chuyển giao các
sản phẩm trí tuệ từ chủ thể này sang chủ thể khác thông qua hợp đồng sử dụng
tác phẩm và hợp đồng chuyển giao công nghệ. BLDS quy định quyền tác giả, quyền
chủ văn bằng bảo hộ từ góc độ là một quyền dân sự, còn các vấn đề liên quan đến
lĩnh vực quản lí nhà nước như: thủ tục đăng kí quyền tác giả và quyền sở hữu
công nghiệp hoặc xử lí vi phạm được quy định trong các văn bản pháp luật khác.
Phần thứ bảy: Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Gồm 20 điều (từ Điều 758 đến Điều 777).
Phần này quy định về thẩm
quyền và pháp luật được áp dụng khi giải quyết các tranh chấp dân sự (hiểu theo
nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài xảy ra.
c. Luật
Khi BLDS được ban hành với tư
cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các đạo luật khác có giá trị như là nguồn
bổ trợ. Bởi vì, BLDS có quy định: Nếu pháp luật có quy định hoặc trong BLDS chỉ
dẫn rõ một đạo luật nào đó được áp dụng thì áp dụng quy định đó. Với ý nghĩa
đó, các luật như Luật hôn nhân và gia đình, Luật công ti, Luật doanh nghiệp ,
Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Luật
về bảo vệ và phát triển rừng... là nguồn của luật dân sự.
d. Nghị quyết của Quốc hội
Văn bản do Quốc hội ban hành,
có hiệu lực như văn bản pháp luật. Kể từ khi ban hành BLDS, Quốc hội đã ban
hành 2 nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với luật dân sự. Nghị
quyết ngày 28/10/1995 về việc thi hành BLDS. Nghị quyết đã liệt kê những văn
bản pháp luật hết hiệu lực khi BLDS bắt đầu có hiệu lực và quy định phạm vi áp
dụng BLDS để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày BLDS có hiệu lực;
Nghị quyết 58 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước
ngày 01/7/1991 có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến giao dịch dân sự về nhà ở giai đoạn trước ngày 01/7/1991, nội dung có
tính đến mọi mặt xã hội đối với vấn đề nhà ở. Cùng với việc thông qua và công
bố BLDS năm 2005 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45/2005/QH 11 về việc thi
hành BLDS năm 2005.
đ. Các văn bản dưới luật
+ Pháp
lệnh: Là văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trước đây, khi chưa ban
hành BLDS thì pháp lệnh là loại nguồn quan trọng phổ biến của luật dân sự.
Nhưng đến nay, các pháp lệnh đó không còn hiệu lực. Các pháp lệnh sau này có
thể được ban hành để giải thích, hướng dẫn cụ thể những quy định của BLDS hoặc pháp lệnh sẽ quy định những lĩnh vực mà luật chưa
đủ chín muồi để ban hành.
+ Nghị
định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư, chỉ thị của
các bộ, các cơ quan ngang bộ.
Các loại văn bản này có ý
nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ thể; có nhiệm vụ hướng dẫn,
giải thích những quy định của BLDS. Những quy định của các bộ, cơ quan ngang bộ
được áp dụng giải quyết cho các quan hệ tương ứng.
+ Nghị quyết Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao.
Xét về
chức năng, toà án các cấp là cơ quan xét xử (Điều1 - Luật tổ chức toà án),
không phải là cơ quan ban hành các văn bản pháp luật. Nhưng trong một thời gian
dài, hệ thống các văn bản pháp luật dân sự thiếu và không đồng bộ mà việc giải
quyết các tranh chấp dân sự là cần thiết và không thể trì hoãn được. Để giúp
các toà án cấp dưới giải quyết tranh chấp, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành
các thông tư hướng dẫn giải quyết các tranh chấp trong những lĩnh vực nhất định
như Thông tư 173 (1972) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Thông tư 81
(1981) giải quyết các tranh chấp về thừa kế... Khi chưa có các văn bản pháp
luật điều tiết, áp dụng các thông tư này để giải quyết các tranh chấp là xác
đáng. Hệ thống pháp luật dân sự ngày càng hoàn thiện nhưng việc áp dụng các văn bản
pháp luật của các cơ quan xét xử khác nhau nhiều khi không thống nhất. Nhằm
thống nhất việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự,
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử ban hành
các nghị quyết hướng dẫn giải quyết các vụ, việc hình sự, kinh tế… trong đó có
nghị quyết về các vấn đề dân sự. Ngoài ra, hàng năm Toà án nhân dân tối cao
tổng kết rút kinh nghiệm và thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử. Những loại văn bản này không là nguồn của luật dân sự nhưng nó kịp thời
khắc phục những lỗ hổng trong luật dân sự, hướng dẫn giải quyết những vụ việc
cụ thể.
II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật dân sự gồm hệ thống
các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ
nhân thân. Các quy phạm pháp luật dân sự vừa có tính hệ thống vừa có tính độc
lập tương đối.
1. Cấu tạo quy phạm pháp luật dân sự
Quy phạm pháp luật dân sự được
cấu tạo bởi các phần: giả định, quy định và chế tài (xem Giáo trình lí luận nhà
nước và pháp luật).
Quy phạm pháp luật dân sự và
điều luật trong văn bản pháp luật dân sự không đồng nghĩa với nhau. Có thể một
điều luật chứa đầy đủ các cấu thành của quy phạm song cũng có thể chỉ có một bộ
phận (giả định, quy định, chế tài). Cũng có thể chế tài được quy định ở phần
khác, thậm chí ở văn bản pháp luật khác.
2. Các loại quy phạm pháp luật dân sự
Quy phạm pháp luật dân sự là
những quy định của Nhà nước về cách xử sự của
các chủ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Điều kiện và hoàn
cảnh rất đa dạng. Cho nên, cách xử sự của các chủ thể cũng rất phong phú và đa
dạng. Trong nhiều trường hợp, pháp luật không chỉ dự liệu những xử sự cụ thể mà
còn đưa ra khung, giới hạn của các xử sự đó hoặc chỉ đưa ra khung pháp lí mà
trong phạm vi khung đó các chủ thể có thể tùy ý lựa chọn cách thức xử sự phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh sao cho có lợi nhất. Tùy theo cách thức quy định
trong các quy phạm, người ta có thể phân chia các quy phạm luật dân sự
thành những loại quy phạm sau:
a. Quy phạm định nghĩa
Là những
quy phạm trong đó nêu ra khái niệm và nêu nội dung khái niệm đó. Quy phạm định
nghĩa xác định phạm vi một sự kiện và giới hạn áp dụng sự kiện đó. Thông thường
quy phạm, điều luật dạng này thể hiện dưới dạng “X là...” Ví dụ: "Đại diện là...”
(Điều 139 BLDS); "thời hạn là..."
(Điều 149 BLDS); "thời hiệu
là..." (Điều 154 BLDS);
b. Quy phạm mệnh lệnh
Là loại quy phạm nêu ra cách
xử sự bắt buộc của chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự. Xử sự này có thể là một
hành vi bắt buộc phải thực hiện, thông thường được diễn tả từ các điều luật
dưới dạng "phải"... Ví dụ: “Trong trường hợp
pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng
hoặc
chứng thực, phải đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó” (Điều 124 BLDS năm 2005). Loại quy phạm này có
những trường hợp thể hiện dưới dạng duy nhất một sự kiện, ví dụ: "Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi
pháp nhân chấm dứt". Quy phạm mệnh lệnh cũng được thể hiện dưới dạng quy
định một hành vi bị cấm không được làm, ví
dụ: "Việc xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác" (Điều 10 BLDS năm
2005).
Về nguyên
tắc, quy phạm mệnh lệnh là những quy định dứt khoát, các bên tham gia không thể
thoả thuận để thay đổi các quy phạm đó. Những loại quy phạm này không phổ biến,
không đặc trưng cho các quy phạm pháp luật dân sự bởi
các quan hệ dân sự rất đa dạng, phong phú (về chủ thể, khách thể, nội dung).
Thông thường, những quy phạm mệnh lệnh được quy định trong trường hợp: nếu làm
khác đi thì không chỉ ảnh hưởng
đến lợi ích của bên kia mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, Nhà
nước, đến quyền và lợi ích của người khác.
c. Quy phạm tùy nghi lựa chọn
Là những quy phạm nêu nhiều
cách xử sự khác nhau, trong đó các chủ thể tham gia có thể lựa chọn một trong
các cách đã nêu. Ví dụ: "Trong trường hợp bên bán giao vật với số lượng nhiều hơn số lượng đã thoả thuận,
thì bên mua có quyền không nhận phần dôi ra; nếu nhận, thì phải thanh toán theo
giá thoả thuận phần dôi ra"
(khoản 1 Điều 435 BLDS). Trong trường hợp này, pháp luật đưa ra các cách xử sự
khác nhau và người có quyền có thể lựa chọn một trong các cách đó. Loại quy
phạm này là dạng "trung chuyển" giữa quy phạm mệnh lệnh và quy phạm
tùy nghi (tiểu mục d). Bởi vì, ở đó các chủ thể chỉ được phép lựa chọn trong
các cách xử sự đã được quy định. Mặt khác, nó cũng tạo cho các chủ thể các cách
lựa chọn khác nhau, tạo điều kiện các chủ thể phát huy được quyền tự định đoạt
của mình.
d. Quy phạm tùy nghi
Khác với các quy phạm đã nêu
trên (dự liệu bắt buộc, dự liệu lựa chọn có hạn chế), các quy phạm tùy nghi
theo thoả thuận cho phép các chủ thể tự định đoạt. Giới hạn sự tự định đoạt này
bị hạn chế bởi các nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng.
Ví dụ: "Địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thoả thuận" (Điều
284 BLDS). Thoả thuận là cốt lõi của mọi hợp đồng dân sự, ở đây các chủ thể
được toàn quyền quyết định về quan hệ mà họ tham gia. Loại quy phạm này phổ
biến trong các quy phạm pháp luật dân sự. Ngay cả trong trường hợp pháp luật có quy định một cách xử sự nào đó thì trước tiên
phải được áp dụng theo sự thoả thuận của các bên và được thể hiện dưới dạng "... Nếu không có thoả thuận
khác...", "bên thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp
để thực hiện nghĩa vụ nếu các bên không có thoả thuận khác". Như vậy,
việc thoả thuận có thể giống, có thể khác các quy định của pháp luật.
III. ÁP DỤNG LUẬT DÂN SỰ, ÁP
DỤNG TẬP QUÁN VÀ ÁP DỤNG TƯƠNG TỰ PHÁP
LUẬT
1. Áp dụng luật dân sự
Luật dân sự là hệ thống các
quy phạm. Các quy phạm này là những hình mẫu, hành lang pháp lí để các chủ thể
khi hành xử phải tuân theo. Đó là các chuẩn mực ứng xử, giới hạn các chuẩn mực
của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự. Về phương diện xã hội, việc thực
thi pháp luật của các chủ thể tuân theo các
"chuẩn mực ứng xử" đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự phụ
thuộc vào các yếu tố sau:
- Bản thân nội dung các quy phạm
pháp luật. Các quy phạm có thực sự phù hợp và phản ánh đúng các điều kiện kinh
tế trong xã hội hay không;
- Ý thức pháp luật của các chủ
thể tham gia cũng như ý thức pháp luật của các thành viên khác trong xã hội;
- Điều kiện, khả năng áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tự bản thân các quy phạm pháp
luật không thể "sống" nếu không được áp dụng trong thực tế cuộc sống.
Vì vậy, việc áp dụng pháp luật dân sự trong cuộc sống là việc rất quan trọng để
biến các quy phạm pháp luật trở thành công cụ thực sự, tích cực điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
Áp dụng luật dân sự là những
hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào những sự kiện
thực tế đã xảy ra, dựa vào những quy phạm pháp luật phù hợp với sự kiện thực tế
đó để đưa ra quyết định phù hợp với thực tế và những quy định của pháp luật.
Những quyết định được cơ quan có thẩm quyền đưa ra có thể là:
- Công nhận hay bác bỏ một
quyền dân sự nào đó đối với một chủ thể (quyền sở hữu, quyền thừa kế, quyền đòi
nợ...);
- Xác lập
một nghĩa vụ cho một chủ thể nhất định (bồi thường thiệt hại, trả nợ, giao vật,
trả tiền, chấm dứt hành vi vi phạm...);
- Áp dụng các biện pháp cưỡng
chế cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của chủ thể khác, của Nhà nước (tịch thu
tài sản, phạt vi phạm, quyết định bán đấu giá...).
2. Áp dụng tập quán và áp dụng tương tự pháp luật
Luật dân sự điều chỉnh các
quan hệ đa dạng, phức tạp về nhiều phương diện: chủ thể, khách thể, nội dung;
hơn nữa, những quan hệ này không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội nói chung và khoa học kĩ thuật nói riêng. Vì vậy, khi ban hành các văn bản
pháp luật, nhà lập pháp không dự liệu hết được các quan hệ xã hội cần thiết
phải điều chỉnh bằng pháp luật. Việc này tạo lỗ hổng trong pháp luật dân sự.
Hơn nữa, các quy định của pháp luật tồn tại ở dạng tĩnh tương đối (chỉ thay đổi
khi bị sửa đổi) nhưng các quan hệ xã hội lại biến đổi không ngừng. Bởi vậy, sẽ
tồn tại những trường hợp không có quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã
hội đang tồn tại (như không có các quy định về thu mua, về hụi, họ...). Để khắc
phục hiện tượng này nhằm để các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật,
BLDS đưa ra nguyên tắc áp dụng áp dụng tập quán, tương tự pháp luật (Điều 3
BLDS).
Áp dụng tập quán là sử dụng
các xử sự được cộng đồng địa phương, dân tộc thừa nhận như là chuẩn mực ứng xử
đối với các thành viên trong cộng đồng dân tộc, địa phương đó (như việc áp dụng
các đơn vị đo lường giạ lúa; chục ở miền Nam; chia thịt thú rừng ở các vùng dân
tộc...).
Áp dụng
tương tự pháp luật là dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối với
những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lí để điều chỉnh
quan hệ cần xử lí đó nhưng không có quy phạm
trực tiếp điều chỉnh quan hệ đó (như dùng quan hệ vay để xử lí quan hệ
hụi họ hay dùng các quan hệ về dịch vụ để điều chỉnh quan hệ đổi công cho
nhau....).
- Áp dụng
tương tự pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng:
+ Có quan hệ A thuộc lĩnh vực
luật dân sự điều chỉnh nhưng không có quy phạm A;
+ Có quan hệ B, có quy phạm B
trực tiếp điều chỉnh, quan hệ B tương tự như A thuộc lĩnh vực do luật dân
sự điều chỉnh. Trong trường hợp này có thể dùng quy phạm B để điều chỉnh quan
hệ A.
Nếu không có các quy phạm
tương tự, không xác định được các quy phạm cần áp dụng mà phải dùng những
nguyên tắc chung của pháp luật để giải quyết thì việc áp dụng đó cũng là áp
dụng tương tự pháp luật.
Trong một số trường hợp đối
tượng đang xem xét thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật và mỗi ngành
luật điều chỉnh một giác độ khác nhau, ví dụ tranh chấp về chuyển quyền sử dụng
đất. Để giải quyết tranh chấp này cần phải xem xét những ngàng luật nào điều
chỉnh quan hệ trên. Luật dân sự điều chỉnh sự chuyển dịch các quyền của người
sử dụng đất, luật đất đai điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất… Trường hợp này sẽ áp dụng quy phạm của nhiều ngành luật để điều chỉnh. Đây
là áp dụng pháp luật để giải quyết trang chấp.
Nhưng việc áp dụng tương tự
pháp luật, áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp dân sự không được trái
với các nguyên tắc chung được quy định trong BLDS.
Tóm lại, việc áp dụng tương tự
pháp luật phải có các điều kiện sau:
- Quan hệ
đang tranh chấp thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh;
- Trong
pháp luật dân sự chưa có quy phạm trực tiếp điều chỉnh;
- Với các quy phạm và chế định
hiện có không thể giải quyết được tranh chấp đó;
- Có tập quán được cộng đồng
thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó;
- Hiện có các quy phạm (chế
định) khác trong luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tương tự (gần giống các
quan hệ cần điều chỉnh).
Việc áp dụng tập quán, áp dụng
tương tự pháp luật nhằm khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật dân sự đó là
trên thực tế có các quan hệ pháp luật dân sự phát sinh nhưng không có các quy
phạm pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên, cần phải giải quyết tranh chấp đó, cho nên
phải áp dụng tương tự pháp luật. Việc áp dụng này cũng sẽ tạo tiền đề để các
nhà lập pháp hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật.
C. NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC CỦA
LUẬT DÂN SỰ
I. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT DÂN SỰ
Luật dân sự là ngành luật với
vai trò điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa và tiền tệ và
các quan hệ nhân thân trong "nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế với
các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể làm nền
tảng. Với tư cách là công cụ, phương tiện điều tiết các quan hệ xã hội để thực
hiện nhiệm vụ chính trị mà Hiến pháp thể chế hóa đường lối do Đảng vạch ra, vì
vậy, nhiệm vụ của luật dân sự không thể tách rời với nhiệm vụ của cách mạng nói
chung và pháp luật nói riêng. Điều 1 BLDS quy định:
“Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lí trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tình thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội".
BLDS là một bộ phận quan trọng
của pháp luật dân sự, cho nên, nhiệm vụ được quy định cho BLDS có thể được coi
là nhiệm vụ của ngành luật dân sự nói chung. Những nhiệm vụ của luật dân sự là:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức; lợi ích của Nhà nước; lợi ích công cộng. Luật dân sự
quy định các quyền, các lợi ích của các chủ thể trong giao lưu dân sự. Thông
qua việc quy định các quyền và nghĩa vụ này, các chủ thể biết được những quyền
của mình để yêu cầu bảo vệ hoặc tự bảo vệ quyền của họ. Mặt khác, các chủ thể
cũng nhận thức được giới hạn các quyền của họ để không xâm phạm đến quyền của
người khác, không xâm hại đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
- Bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lí trong quan hệ dân sự. Bình đẳng giữa các chủ thể là đặc điểm quan
trọng trong phương pháp điều chỉnh của luật dân sự, vì nó tạo điều kiện cho các
chủ thể thực hiện tốt quyền dân sự của mình trong một quan hệ pháp luật dân sự
nhất định. Hiện nay, trong cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ghi nhận bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu là tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế, tạo cho mọi cá nhân "khơi
dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý
chí tự lực tự cường, ra sức làm giàu cho mình và cho Tổ quốc " (Văn
kiện Đại hội VIII). Bình đẳng giữa các chủ thể được thể hiện là bình đẳng giữa
quyền và nghĩa vụ của các bên, các chủ thể khi tham gia vào quan hệ; bình đẳng
về trách nhiệm nếu vi phạm các nghĩa vụ của họ.
BLDS bảo đảm sự an toàn pháp
lí bằng cách quy định những "hành lang pháp lí", "những giới
hạn" mà trong những hành lang đó, các chủ thể được tự do hành động. Những
quyền và lợi ích hợp pháp được tạo bởi các hành vi trong hành lang đó, những
giới hạn đó được Nhà nước bảo đảm, hậu thuẫn.
- Góp phần tạo điều kiện đáp
ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Việc mở rộng các quyền của các chủ thể là tất yếu khách quan do
nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Luật dân sự không chỉ quy định các
quyền tài sản, các quyền nhân thân của cá nhân và tổ chức mà còn quy định những
biện pháp, cách thức để các chủ thể có thể đáp ứng các quyền đó. Biến quyền dân
sự khách quan thành một quyền dân sự cụ thể của một chủ thể nhất định.
- Giáo dục con người mới xã
hội chủ nghĩa, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân. Trách nhiệm dân sự là
trách nhiệm mang tính chất tài sản để khôi phục tình trạng tài sản của người bị
thiệt hại. Do vậy, các chế tài dân sự không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của bên
bị thiệt hại mà còn có tác dụng giáo dục các chủ thể khác tuân thủ các quy định
của pháp luật dân sự, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Các nhiệm
vụ của luật dân sự là một thể thống nhất, được thể hiện trong các chế định
riêng biệt của luật dân sự. Khi điều tiết các quan hệ, tự nó đã bảo vệ các quan
hệ đó và giáo dục chủ thể bằng các biện pháp cưỡng chế có thể được áp dụng.
Với tư
cách là công cụ điều tiết các quan hệ xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị trong
từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, cho nên khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi
thì nhiệm vụ của nó cũng thay đổi hoặc với
nhiệm vụ đó nhưng có nội dung mới được thực hiện trong điều kiện và hoàn cảnh
mới.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT
DÂN SỰ
1. Khái niệm chung về nguyên tắc của luật dân sự
Nguyên tắc của một ngành luật
là những khung pháp lí chung, những quy tắc chung được pháp luật ghi nhận có
tác dụng định hướng và chỉ đạo cho toàn bộ các quy phạm pháp luật của ngành
luật đó. Các nguyên tắc của một ngành luật không chỉ là những quy phạm khi điều
tiết mà còn là phương châm chỉ đạo khi áp dụng pháp luật, đặc biệt là áp dụng
tương tự pháp luật. Việc định ra các nguyên tắc của luật dân sự dựa trên cơ sở
những nguyên tắc chung của luật pháp, căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều
chỉnh của luật dân sự.
Các
nguyên tắc của luật dân sự được ghi nhận tại Chương II - Phần thứ nhất của BLDS: "Những nguyên tắc cơ
bản". Trong luật dân
sự còn tồn tại các nguyên tắc riêng cho từng chế định của luật dân sự. Những
nguyên tắc chung được quy định tại Chương II - Phần thứ nhất có giá trị áp dụng
đối với tất cả các chế định, quy phạm pháp luật dân sự. Những nguyên tắc riêng
là những nguyên tắc được quy định trong từng phần, từng chế định cụ thể, cũng
có thể nhắc lại nguyên tắc chung trong các phần, các chế định riêng biệt của
luật dân sự.
Những nguyên tắc chung của
pháp luật được nghiên cứu trong chương trình lí luận về nhà nước và pháp luật,
những nguyên tắc đó vẫn được áp dụng cho luật dân sự cũng như các ngành luật
khác. Trong phần này chỉ đề cập những nguyên tắc chung được quy định ở Chương
II - Phần thứ nhất của BLDS. BLDS đã quy
định một hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ và dân sự. Đó là nhưng quy định mang những quan điểm chủ đạo, quán
triệt trong toàn bộ nội dung của Bộ luật. Những nguyên tắc này là sự kế thừa và
phát triển những nguyên tắc đã được quy định trong các văn bản pháp luật trước
đó đồng thời thể hiện rõ quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Trong phần này quy định 10 nguyên tắc cơ bản của BLDS nói
riêng và pháp luật dân sự nói chung.
2. Các nguyên tắc của luật dân sự Việt Nam
BLDS ghi nhận một loạt các
nguyên tắc của pháp luật dân sự trong đó có những nguyên tắc đã được xác định ở
các văn bản pháp luật trước đó, có những nguyên tắc lần đầu tiên được ghi nhận.
a. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận (Điều 4 BLDS)
Các bên tham gia quan hệ dân
sự có quyền tự do cam kết, thoả thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập,
thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết và thoả thuận hợp pháp được
pháp luật bảo hộ. Ví dụ như: Trong hợp đồng, các bên có thoả thuận về các
phương thức thực hiện nghĩa vụ, các thoả thuận đó có giá trị pháp lí đối với
các bên tham gia hợp đồng.
Khi cam kết, thoả thuận các
bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một
người cam kết, thoả thuận trái với ý chí của người đó. Mọi cam kết, thoả thuận
không có sự tự nguyện của các bên có thể bị tuyên bố là vô hiệu.
b. Nguyên tắc bình đẳng (Điều 5 BLDS)
Trong quan hệ dân sự các chủ
thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lí do nào về sự khác biệt để đối
xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa
các hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng dân sự; bình đẳng về để lại và hưởng
di sản thừa kế. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:
- Bình đẳng trong việc tham
gia vào các quan hệ dân sự không phụ thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội
khác;
- Bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đối
với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân
sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải
chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
c. Nguyên tắc thiện chí, trung thực (Điều 6 BLDS)
Trong quan hệ dân sự các bên
phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân
sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình mà còn phải quan
tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngoài
ra đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế
thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực,
thiện chí. Nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có
chứng cứ.
d. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Điều 7 BLDS)
Trách nhiệm dân sự là một loại
trách nhiệm pháp lí nhưng trước tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với
người bị vi phạm. Người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ
nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực
hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải
bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình.
đ. Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc (Điều 8 BLDS)
Đạo đức và truyền thống tốt
đẹp của xã hội là cơ sở xã hội của pháp luật. Một nền pháp luật chỉ tồn tại và
bền vững khi phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc xác
lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự cũng phải dựa trên nền tảng của đạo
đức và truyền thống đó trên tinh thần tương thân, tương ái “mình vì mọi người,
mọi người vì mình” nhằm tạo điều kiện cho những người, những cộng đồng chưa có
những điều kiện thực tế có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của
họ.
e. Nguyên tắc
tôn trọng, bảo vệ các quyền dân sự (Điều 9
BLDS)
Quyền sở hữu và các quyền tài
sản khác là những quyền quan trọng nhất của công dân cũng như tổ chức trong
giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi trong các quyền dân sự của các chủ thể và
chi phối các quyền năng khác. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu,
quyền tài sản của các chủ thể khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản của
người khác, ngoài việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính...)
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự nhằm phục hồi tình
trạng tài sản của người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các chủ
thể thực hiện một cách bình đẳng. Quyền nhân
thân do pháp luật quy định phải được tôn trọng và bảo vệ. Không ai được xâm
phạm đến các quyền nhân thân của các chủ thể khác. BLDS quy định những quyền
nhân thân quan trọng nhất, trong đó nhiều quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi
nhận. Mọi hành vi vi phạm phải được chấm dứt và người vi phạm phải phục hồi giá
trị nhân thân của người bị vi phạm và có thể phải bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất tinh thần cho người bị vi phạm.
f. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10 BLDS)
"Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác"
(Điều 10 BLDS). Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn
các nhu cầu vật chất, tinh thần của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó.
Tuy nhiên, việc thực hiện các hành vi dân sự không thể tiến hành tuỳ tiện mà
phải thực hiện trong một khuôn khổ, một giới hạn nhất định. Quyền của một chủ
thể bị giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng. Khi các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình mà
gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho các chủ thể bị hại đó.
g. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật (Điều 11 BLDS)
Đây là nguyên tắc không chỉ áp
dụng riêng của pháp luật dân sự mà cả hệ thống pháp luật nói chung. Các quyền
nghĩa vụ dân sự phải được xác lập theo các căn cứ, trình tự thủ tục do pháp
luật quy định. Tuy nhiên, do đặc thù của quan hệ dân sự, pháp luật cho phép các
bên cam kết, thoả thuận về việc xác lập quyền, nghĩa vụ và cả trách nhiệm, biện
pháp áp dụng trách nhiệm khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ, thực
hiện không đúng nghĩa vụ của họ. Việc các bên cam kết, thoả thuận phải được
thực hiện trong khuôn khổ do pháp luật quy định.
h. Nguyên tắc hoà giải (Điều 12 BLDS)
Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các bên phù hợp với quy định của
pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia
quan hệ dân
sự, giải quyết các tranh chấp dân sự.
Các
nguyên tắc được quy định tại Chương I - Phần thứ nhất của BLDS là một hệ thống
chỉnh thể. Bởi vậy, phải xem xét nó như một thể thống nhất khi áp dụng pháp
luật, giải thích pháp luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét