Pages

Chủ thể của quan hệ pháp luật trong luật dân sự

CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT TRONG LUẬT DÂN SỰ
******

Chương I
Mục 1
 Mục 2
 Mục 3
Chương II
Mục 1
 Mục 2
 Mục 3
Mục 4
Chương III
Mục 1
 Mục 2



Luật dân sự Việt Nam hiện hành thừa nhận sự tồn tại của bốn loại chủ thể của quan hệ pháp luật: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.

Chương I. Cá nhân



Cá nhân luôn có lý lịch dân sự cho phép phân biệt với cá nhân khác. Sự tồn tại của tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của cá nhân lệ thuộc vào một số điều kiện. Mặt khác, ta biết rằng trên nguyên tắc, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật ngang nhau và, một cách ngoại lệ, một cá nhân nào đó có thể mất năng lực pháp luật trong một hoặc nhiều quan hệ đặc thù; trái lại, không phải mọi cá nhân đều có năng lực hành vi ngang nhau và có những cá nhân ở trong tình trạng mất năng lực hành vi tổng quát hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ (gọi chung là không có năng lực hành vi): luật xác định rằng người không có năng lực hành vi cần được bảo vệ. Cuối cùng, có những cá nhân, dù đã thành niên, ở trong tình trạng suy đồi về nhân cách: luật nói rằng những cá nhân này có thể ở bị đặt trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi để các giao dịch của họ được giám sát nhằm tránh gây thiệt hại cho người khác, cũng như để bảo vệ quyền lợi của chính họ trong điều kiện những quyền lợi ấy có nguy cơ bị hy sinh trong những giao dịch được xác lập một cách thiếu cân nhắc.

Mục I.  Lý lịch dân sự của cá nhân


Lý lịch dân sự của cá nhân hình thành từ ba yếu tố: họ và tên, hộ tịch, và nơi cư trú.

I. Họ và tên

Khái niệm. Họ và tên là danh xưng bắt buộc mà một cá nhân phải có để phân biệt với những những cá nhân khác, nhất là khi được xướng lên ở nơi công cộng. Họ và tên bao gồm hai phần: họ, để chỉ định nguồn gốc gia đình; tên (đúng ra là tên và chữ lót hoặc tên đệm), để chỉ định một người không phải là một người khác. Tất nhiên, chỉ họ và tên thôi chưa đủ để phân biệt các cá nhân trong tất cả mọi trường hợp; nhưng rõ ràng, trong hầu hết các quá trình giao tiếp phổ thông, họ và tên là công cụ phân biệt hữu hiệu nhất.   

Họ và tên khác với bí danh, bút danh. Bất kỳ người nào cũng phải có họ và tên, trong khi không phải ai cũng có bí danh, bút danh. Hơn nữa việc đặt họ và tên chịu sự chi phối của các quy tắc được ghi nhận cả trong luật và trong tục lệ, và được đăng ký bắt buộc trong các chứng thư hộ tịch; trong khi việc đặt bí danh, bút danh thường chỉ cần tuân theo các tập quán vùng hoặc nghề nghiệp, không được ghi trong chứng thư khai sinh, và không bắt buộc ghi trong các chứng thư hộ tịch khác. Bí danh, bút danh trong luật Việt Nam cũng có thể được bảo vệ, trong trường hợp người có bí danh, bút danh bị thiệt hại do việc sử dụng bí danh, bút danh của người khác gây ra (BLDS Điều 28 khoản 3).  
Ta xem xét hai vấn đề chính: đặt họ và tên; thay đổi họ và tên.
A. Đặt họ và tên

Đặt họ và tên là một quyền đồng thời là một nghĩa vụ đối với mỗi cá nhân. Việc đặt tên chịu sự chi phối của những nguyên tắc riêng so với việc đặt họ.

1. Quyền được đặt họ và tên

Mỗi người có quyền có họ và tên. Nguyên tắc này được chính thức thừa nhận trong luật viết (BLDS Ðiều 28 khoản 1). Quyền có họ và tên được hiểu như quyền được gọi, được xưng hô, quyền tự xưng bằng họ và tên, trong quan hệ với người khác. Tương ứng với quyền có họ và tên, mỗi người có nghĩa vụ có họ và tên: Nghĩa vụ có họ và tên được xác lập trong mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước: cá nhân phải có họ và tên, vì điều đó cần thiết cho việc quản lý dân cư, cho việc quản lý hộ tịch và lý lịch tư pháp của cá nhân.  

Không chỉ có quyền có họ và tên, mỗi người còn có quyền đối với họ và tên của mình. Trong chừng mực nào đó, quyền đối với họ và tên có những đặc điểm của quyền sở hữu[1][1]: người có một họ và tên  có thể yêu cầu được bảo vệ, trong trường hợp họ và tên của mình bị một người khác sử dụng. Họ và tên còn được bảo vệ như những giá trị tinh thần: người có một họ và tên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp họ và tên của mình bị bôi nhọ.

Sử dụng họ và tên. Theo BLDS Ðiều 28 khoản 2, cá nhân xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận. Thực ra, cá nhân có nghĩa vụ sử dụng họ và tên thật của mình không chỉ trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cá nhân chỉ được phép sử dụng họ và tên khác, không phải là họ và tên được ghi trong chứng thư khai sinh, trong những trường hợp mà luật không cấm. Ðặc biệt, họ và tên thật phải được sử dụng trong các giấy tờ giao dịch với cơ quan Nhà nước.

Song, nguyên tắc sử dụng họ và tên thật, được thiết lập như trên, không cứng nhắc. Tục lệ Việt Nam thừa nhận rằng người phụ nữ có chồng sẽ mang họ và tên chồng trong quan hệ với người ngoài gia đình. Tục lệ này có nguồn gốc trong chế độ phụ quyền áp dụng đối với gia đình Việt Nam cổ xưa: người cha trong gia đình là người duy nhất có quyền đại diện cho gia đình trước người thứ ba. Tục lệ hiện đại không còn coi việc người vợ mang tên chồng như là một nghĩa vụ, nhưng tiếp tục thừa nhận quyền của người vợ sử dụng tên chồng trong các giao dịch xác lập với người ngoài gia đình. Có trường hợp người vợ mang tên chồng cả khi tham gia vào các hoạt động chính trị hoặc các hoạt động của bộ máy Nhà nước, chứ không chỉ khi xác lập các giao dịch dân sự hoặc thương mại.

Mặt khác, có những nhân vật được xã hội nhận biết nhờ bí danh, bút danh, biệt danh  nhiều hơn nhờ họ và tên thật. Trong trường hợp này, luật cho phép cá nhân sử dụng bí danh, bút danh, biệt danh khi thực hiện các hoạt động trong những lĩnh vực mà do những hoạt động trong lĩnh vực đó, đương sự trở nên nổi tiếng dưới bí danh, bút danh, biệt danh của mình. Ví dụ: nhà hoạt động chính trị, khi giữ một chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước, có thể ký bí danh, bút danh, biệt danh của mình trong văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính.         

2. Ðặt họ

Nguyên tắc lấy họ cha. Cá nhân, khi sinh ra, được mang họ cha. Trong một số cộng đồng dân tộc ít người ở Việt Nam có thể tồn tại tục lệ cho con lấy họ mẹ. Bởi vậy, BLDS Ðiều 55 khoản 1 quy định rằng “họ của trẻ sơ sinh là họ của người cha hoặc họ của người mẹ theo tập quán...”. Dẫu sao, tục lệ lấy họ mẹ không phổ biến; điều đó có nghĩa rằng tục lệ lấy họ cha mang tính nguyên tắc.

Nguyên tắc lấy họ cha không được xếp vào nhóm các quy phạm của luật mệnh lệnh trong luật thực định. Cha và mẹ có thể thỏa thuận cho con mang họ mẹ (Ðiều 55 khoản 1). Từ câu chữ của luật viết, có thể tin rằng, một khi có cha hoặc mẹ, thì con chỉ có thể mang họ của một trong hai người: cha, mẹ không thể cho con mang một họ thứ ba nào khác.

Do nguyên tắc lấy họ cha mà: 1 - Tất cả các con cùng cha đều có cùng một họ; 2- Họ được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi những người có giới tính nam: con gái cũng mang họ cha, nhưng không thể chuyển giao họ đó cho con trai của mình, nếu không có thỏa thuận khác giữa cha và mẹ. 

Ðặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Luật viết hiện hành không có quy định về việc đặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Trong trường hợp có người nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì theo quy định của luật, họ và tên của người nhận nuôi được ghi vào các ô dành cho cha, mẹ trong giấy khai sinh (Nghị định số ngày Ðiều 21 đoạn chót). Ðiều đó cho phép nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi trong trường hợp này sẽ mang họ của người cha nuôi (nếu có đủ cha, mẹ nuôi hoặc chỉ có cha nuôi) hoặc họ của mẹ nuôi (nếu chỉ có mẹ). Nhưng trong trường hợp không có ai nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì cơ quan hộ tịch vẫn phải đăng ký khai sinh: hẳn khi đó chính cá nhân, tổ chức nhận nuôi dưỡng cùng với cơ quan hộ tịch phải chọn cho trẻ bị bỏ rơi một họ, theo tập quán của nơi đăng ký khai sinh[2][2]. Thông thường, họ được lựa chọn trong trường hợp này là họ được mang bởi đa số hoặc nhiều cư dân trong vùng nơi phát hiện đứa trẻ hoặc bơi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ.    

3. Ðặt tên

Tên ở Việt Nam đi sau họ và được sử dụng để xưng hô, cả trong quan hệ xã giao hoặc gia đình, bè bạn, và cả theo nghĩa nghiêm trang lẫn theo nghĩa thân mật[3][3].  
Nguyên tắc tự do đặt tên. Khác với họ (được đặt theo họ cha, họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên của cá nhân do người khai sinh cho cá nhân lựa chọn theo ý mình. Tục lệ có can thiệp vào việc đặt tên, còn luật viết chưa có quy định cụ thể ở điểm này. Thông thường, cá nhân được đặt tên lựa chọn giữa các tên thông dụng (Hùng, Dũng, Minh, Hồng, Tuyết,...). Những tên lạ cũng có thể được chấp nhận. Có những tên rất buồn cười cũng được ghi nhận; nhưng, dù luật không chính thức cấm, có vẻ như không thể đặt tên cho cá nhân bằng những từ dùng để chưởi rủa hoặc bằng những từ thuộc nhóm ngôn ngữ hạ cấp[4][4].

Trên nguyên tắc, tên được đặt, trong khung cảnh của thực tiễn và tập quán hộ tịch, phải là tên bằng tiếng Việt, đối với người được khai sinh mang quốc tịch Việt Nam và thuộc dân tộc kinh. Người thuộc dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài có thể mang tên phù hợp với ngôn ngữ của dân tộc mình, của nước mình; nhưng nếu chữ viết của ngôn ngữ đó không phải là chữ Latinh, thì tên đó phải được phiên âm bằng chữ Latinh[5][5]. Dẫu sao, không thể coi là trái pháp luật hoặc trái đạo đức một nguyện vọng đặt tên bằng tiếng nước ngoài cho người có quốc tịch Việt Nam, nhất là trong điều kiện người được khai sinh có mang dòng máu của dân tộc sử dụng ngôn ngữ có tên đó. Cá biệt, có trường hợp tên đọc được theo tiếng Việt, nhưng lại không tuân theo các quy luật cấu tạo từ ngữ tiếng Việt, không được ghi nhận trong từ điển tiếng Việt, cũng không phải là tên có nguồn gốc từ ngôn ngữ của dân tộc ít người hoặc từ tiếng nước ngoài[6][6]; những tên như vậy cũng có thể được chấp nhận.    

B. Thay đổi họ và tên                        

Thay đổi họ. Theo khoản 1 Ðiều 29 BLDS, việc thay đổi họ được cho phép trong những trường hợp sau đây: 1 - Theo yêu cầu của đương sự, mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của mình; 2 - Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt; 3 - Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; 4 - Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại; 5 - Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc truyền thống của mình; 5 - Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Luật nói thêm rằng việc thay đổi họ, tên cho người có đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Ta có nhận xét:

- Việc thay đổi họ, trong luật Việt Nam, chỉ được thực hiện trên cơ  sở có yêu cầu của những người có liên quan chứ không bao giờ là hệ quả đương nhiên của một giao dịch hoặc một sự kiện pháp lý (ví dụ, nhận con nuôi).
- Trường hợp thứ nhất ghi trên, theo tập quán, chỉ được áp dụng đối với việc thay đổi tên: “họ” trước hết là một giá trị tinh thần, giá trị đạo đức; thay đổi họ với lý do rằng mang một họ nào đó, thì sẽ bị mất danh dự... là một thái độ phủ nhận nguồn gốc và bị coi như phi đạo đức.
- Việc thay đổi họ của người dưới 18 tuổi được thực hiện theo đơn yêu cầu của cha, mẹ (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Điều 53 khoản 2). Đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).   

Thay đổi tên. Việc thay đổi tên được cho phép trong những trường hợp  tương tự như đối với việc thay đổi họ. Việc thay đổi tên thường được yêu cầu trong trường hợp thứ nhất của khoản 1 Ðiều 29 BLDS; trong các trường hợp còn lại, các yêu cầu thường chỉ dừng lại ở việc thay đổi họ.

Thủ tục. Trong luật Việt Nam hiện hành, việc thay đổi họ, tên được thực hiện trong khuôn khổ thủ tục điều chỉnh chứng thư khai sinh về phần họ tên. Điều đó có nghĩa rằng cơ quan có quyền cho phép thay đổi họ tên là UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền (đúng hơn là UBND tỉnh nơi đăng ký khai sinh)[7][7].

Người muốn xin thay đổi họ, tên phải lập một bộ hồ sơ xin thay đổi nội dung chứng thư hộ tịch (đúng hơn là chứng thư khai sinh), bao gồm: đơn xin thay đổi họ, tên, bản chính giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình của người có đơn yêu cầu, chứng minh nhân dân và các giấy tờ cần thiết khác theo quy định tại Điều 29 BLDS. Trong trường hợp không có các giấy tờ này thì phải có giấy tờ hợp lệ khác thay thế. Đơn xin thay đổi họ, tên phải nêu rõ lý do và có xác nhận của UBND xã nơi cư trú, cũng như UBND xã nơi đăng ký khai sinh.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, UBND tỉnh phải ra quyết định của mình. Nếu xét thấy việc thay đổi họ, tên là có lý do chính đáng, thì UBND quyết định cho phép thay đổi họ, tên. Quyết định cho phép thay đổi họ, tên được Sở tư pháp ghi vào sổ đăng ký thay đổi họ, tên và được ghi nhận trên bản chính giấy khai sinh của đương sự.    

II. Hộ tịch

Tình trạng nhân thân và chứng thư hộ tịch. Cá nhân được phân biệt với cá nhân khác bằng việc xác định những yếu tố tạo thành tình trạng nhân thân. Quan niệm cổ điển chỉ coi như chất liệu của tình trạng nhân thân những yếu tố gắn liền cá nhân với Nhà nước và gia đình: quốc tịch, quan hệ cha-con, mẹ-con và quan hệ vợ chồng. Trong quan niệm hiện đại, các yếu tố cấu thành tình trạng nhân thân rất đa dạng: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, tình trạng hôn nhân và gia đình, dân tộc, quốc tịch,... Một số yếu tố cơ bản của tình trạng nhân thân được chính thức ghi nhận trong những giấy tờ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập, gọi là chứng thư hộ tịch.

Khái niệm chứng thư hộ tịch. Ðó là văn bản do cơ quan Nhà nước lập nhằm ghi nhận những sự kiện đáng chú ý nhất trong đời sống dân sự của cá nhân. Ba loại chứng thư hộ tịch quan trọng nhất là giấy khai sinh, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và giấy chứng tử.

Ta lần lượt tìm hiểu tổ chức hệ thống hộ tịch, lập chứng thư hộ tịch, hiệu lực của chứng thư hộ tịch và cải chính hộ tịch.

A . Tổ chức hệ thống hộ tịch

Cơ quan hộ tịch. Theo Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998, cơ quan hộ tịch trong luật Việt Nam hiện hành được phân thành ba nhóm: cơ quan quản lý, cơ quan quản lý và đăng ký và cơ quan giúp việc. Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao là các cơ quan quản lý hộ tịch. UBND cấp tỉnh là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi tỉnh và có trách nhiệm tiến hành việc đăng ký hộ tịch cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về hộ tịch. UBND cấp huyện là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi huyện. Sở Tư pháp và phòng Tư pháp là cơ quan giúp việc cho UBND cấp mình trong công tác hộ tịch[8][8]. UBND cấp xã là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi xã và có trách nhiệm đăng ký hộ tịch cho người Việt Nam thường trú tại Việt nam theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Cơ quan lãnh sự là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi quản hạt lãnh sự và trách nhiệm đăng ký hộ tịch cho cho công dân Việt Nam ở nước ngoài.

Biểu mẫu, sổ sách, hồ sơ hộ tịch. Biểu mẫu, sổ đăng ký hộ tịch được lập theo mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định. Sổ đăng ký hộ tịch ở cấp xã được lập thành hai bộ: một bộ lưu tại UBND xã nơi đăng ký; một bộ lưu tại UBND tỉnh cấp trên. Sổ đăng ký hộ tịch ở cấp tỉnh lập thành một bộ và lưu tại UBND tỉnh nơi đăng ký.

B - Lập chứng thư hộ tịch

1. Những người tham gia vào việc lập chứng thư hộ tịch

Người lập chứng thư hộ tịch. Người lập chứng thư hộ tịch là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998, khi quy định rằng Chủ tịch UBND có quyền ký và cấp các chứng thư hộ tịch, không dự liệu khả năng ủy quyền của Chủ tịch UBND cho một người khác để ký chứng thư hộ tịch. Tuy nhiên, trong thực tiễn, Chủ tịch UBND cấp tỉnh thường uỷ quyền cho Giám đốc Sở tư pháp ký các chứng thư hộ tịch chỉ liên quan đến công dân việt Nam.  

Sở Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo chứng thư hộ tịch do Chủ tịch UBND tỉnh ký và lập, lưu trữ sổ đăng ký hộ tịch. Cán bộ hộ tịch tư pháp là người soạn thảo chứng thư hộ tịch do Chủ tịch UBND xã ký và lập, lưu trữ sổ đăng ký hộ tịch.   

Người khai. Người khai là người đến cơ quan đăng ký hộ tịch để xác nhận với người lập chứng thư hộ tịch về việc xảy ra sự kiện cần được ghi nhận bằng chứng thư hộ tịch. Trong việc đăng ký kết hôn, người khai là những người kết hôn. Trong việc khai sinh và khai tử, người khai là người thân tích của người có tên trong chứng thư hộ tịch hoặc một cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người làm chứng. Vai trò của người làm chứng chỉ được ghi nhận trong thủ tục lập một vài loại chứng thư hộ tịch.

- Làm chứng việc đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi - Ðăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi là một thủ tục đặc biệt được cho phép trong trường hợp việc đăng ký hộ tịch đã được thực hiện, như bản chính chứng thư hộ tịch và sổ gốc đã bị mất hoặc hư hỏng mà không sử dụng được (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Ðiều 63). Người xin đăng ký lại phải làm đơn có xác nhận của hai người làm chứng.(Ðiều 65).
- Làm chứng việc khai tử cho người chết không rõ tung tích - Người phát hiện người chết không rõ tung tích phải báo ngay cho UBND cấp xã hoặc Công an cơ sở nơi có người chết để lập biên bản xác nhận tình trạng người chết không rõ tung tích (Nghị định đã dẫn Ðiều 31). Biên bản phải có chữ ký của người phát hiện ra người chết không rõ tung tích, đại diện Công an xã, đại diện ủy ban nhân dân và hai người làm chứng (cùng điều luật).
- Làm chứng cho việc nhận con - Trong trường hợp một người (chưa nộp đơn xin nhận con) mà tính mạng bị cái chết đe dọa do bịnh tật hoặc do các nguyên nhân khác, không thể đến ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu công nhận người khác là con mình, thì đơn được thay thế bằng văn bản có xác nhận của hai người làm chứng về nguyện vọng nhận con của người đó (Nghị định đã dẫn Ðiều 48). 

Người làm chứng phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Ðiều 19 Nghị định đã dẫn, tức là phải:  1 - Ðủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; 2 - Biết rõ sự việc liên quan đến việc làm chứng; 3 - Không có quyền và lợi ích liên quan đến việc làm chứng. Cần lưu ý rằng người làm chứng chỉ ký vào các giấy tờ có tác dụng thiết lập hồ sơ xin đăng ký hộ tịch, không ký vào chứng thư hộ tịch. 
      
2. Các quy định riêng về việc lập giấy khai sinh

Khai việc sinh. Người khai việc sinh, trên nguyên tắc, là cha, mẹ hoặc người thân thích của người được khai sinh (BLDS Ðiều 55 khoản 2). Trường hợp trẻ bị bỏ rơi, thì người khai sinh là cá nhân, tổ chức nhận hoặc được chỉ định tiếp nhận nuôi dưỡng trẻ đó (BLDS Ðiều 56 khoản 2). 
Việc khai sinh phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày sinh của trẻ; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn này là 60 ngày. Trong trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, thì việc khai sinh phải được cá nhân, tổ chức nhận nuôi dưỡng thực hiện sau 30 ngày, kể từ ngày phát hiện mà không tìm được cha, mẹ (Nghị định đã dẫn Điều 21).
Trong trường hợp khai sinh trễ hạn hoặc khai lại việc sinh, thì, mặc dù luật không quy định rõ, có thể tin rằng người phải khai vẫn là cha, mẹ, người thân thích, người đại diện theo pháp luật của người được khai sinh hoặc chính người được khai sinh, nếu người này có đủ năng lực hành vi.

Nơi khai sinh là nơi thường trú của người mẹ hoặc nơi sinh của trẻ (Nghị định đã dẫn Ðiều 17 khoản 1). Nếu người mẹ không có nơi thường trú, thì nơi này được thay bằng nơi người mẹ đăng ký tạm trú có thời hạn (Ðiều 17 khoản 2). Trường hợp cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam sinh sống tại Việt Nam còn người kia là người nước ngoài, thì nơi khai sinh cho con là nơi thường trú của cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam (Ðiều 68 khoản 2).  
 
Nội dung giấy khai sinh. Giấy khai sinh được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ta chỉ lưu ý một vài điểm:

-    Ngày sinh là ngày trẻ được sinh ra; trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không rõ ngày sinh, thì ngày phát hiện trẻ được coi là ngày sinh (Nghị định đã dẫn Ðiều 21).
-   Nơi sinh của trẻ bị bỏ rơi, trong trường hợp không thể được xác định, thì được quy ước là nơi lập biên bản về việc phát hiện trẻ bị bỏ rơi (Nghị định đã dẫn Ðiều 21).
-    Phần khai về cha, mẹ của trẻ bị bỏ rơi được để trống (Ðiều 21). Trong trường hợp có người nhận trẻ làm con nuôi, thì tên của cha, mẹ nuôi được ghi vào phần khai về cha, mẹ; nhưng phần ghi chú trong sổ đăng ký hộ tịch phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”[9][9] (cùng điều luật). 

3. Các quy định riêng về việc lập giấy chứng tử

Khai việc tử. Người khai việc tử là người thân thích, chủ nhà hoặc cơ quan, đơn vị, tổ chức nơi có người chết (BLDS Ðiều 60 khoản 1). Việc khai tử phải được thực hiện trong vòng 48 giờ kể từ khi người đó chết (Nghị định đã dẫn Ðiều 28). Ðối với khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá 15 ngày (cùng điều luật). Nếu việc khai tử được thực hiện trên cơ sở có quyết định của Toà án tuyên bố là đã chết, thì người khai tử cũng chính là người đã yêu cầu Toà án ra quyết định đó. Người khai tử phải xuất trình được giấy báo tử do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định tại Ðiều 33 Nghị định đã dẫn.

Trong trường hợp người chết không rõ tung tích, thì, một khi được phát hiện, người phát hiện phải báo ngay cho UBND cấp xã hoặc Công an cơ sở nơi có người chết để lập biên bản xác nhận tình trạng người chết không rõ tung tích, như đã biết. Trong thời hạn 72 giờ, kể từ khi phát hiện người chết, nếu không tìm được người thân thích và được phép của Công an cấp có thẩm quyền, thì UBND nơi có người chết thực hiện việc khai và đăng ký khai tử cùng một lúc (cùng Ðiều 28).

Nội dung giấy chứng tử. Giấy chứng tử được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ngày và nơi chết của người chết không rõ tung tích, nếu không xác định được, thì được quy ước là ngày và nơi lập biên bản (Ðiều 34). Ngày chết của người được Toà án ra quyết định tuyên bố là đã chết do Toà án xác định (BLDS Ðiều 91 khoản 2); nếu không xác định được, thì ngày chết được quy ước là ngày quyết định liên quan có hiệu lực pháp luật (cùng điều luật).    

4. Các quy định riêng về việc lập giấy chứng nhận kết hôn

Khai đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam sống tại Việt Nam. Các bên kết hôn phải lập tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Tờ khai phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác (đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân) hoặc của UBND xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của mỗi bên (Nghị định đã dẫn Ðiều 23). Việc xác nhận tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá ba mươi ngày (cùng điều luật). Trong trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hay người kia đã chết, thì phải nộp bản sao bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về việc cho ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử (cùng điều luật).

Các bên kết hôn phải tự mình nộp tờ khai đăng ký kết hôn tại UBND xã nơi cư trú của một trong hai bên, trừ trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng, có xác nhận của UBND xã nơi cư trú của người vắng mặt (Nghị định đã dẫn Ðiều 22 và 23).

Sau khi nhận đủ hồ sơ, UBND phải tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND trong vòng bảy ngày (Nghị định đã dẫn Ðiều 24). Việc xác minh nhằm bảo đảm rằng việc kết hôn không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Nếu cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày (cùng điều luật). Việc đăng ký kết hôn chỉ được tiến hành, nếu quá thời hạn trên mà không có ai phản đối việc kết hôn của các đương sự.

Khai đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Gọi là kết hôn có yếu tố nước ngoài, việc kết hôn giữa công dân Việt nam vối công dân nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà có một bên đang định cư ở nước ngoài, và giữa công dân nước ngoài đang sống tại Việt Nam với nhau[10][10]. Theo đó:

- Cơ quan đăng ký kết hôn là UBND tỉnh;
- Không có thủ tục niêm yết; thay vào đó là thủ tục xác minh do Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan Công an thực hiện. Nội dung xác minh tất nhiên cũng xoay quanh những điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp đặc thù, việc xác minh còn nhằm làm rõ những hậu quả có thể có của việc kết hôn đối với an ninh quốc gia.     

Nội dung giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ngày kết hôn là ngày tiến hành lễ đăng ký kết hôn tại UBND xã (ngày UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài). Giấy chứng nhận kết hôn phải có chữ ký của các bên kết hôn. 

C. Thay đổi, cải chính nội dung chứng thư hộ tịch

Khái niệm. Thay đội nội dung chứng thư hộ tịch là việc sửa đổi các ghi chép trong chứng thư đó, một khi có lý do chính đáng hoặc trong những trường hợp khác được pháp luật thừa nhận. Cải chính nội dung chứng thư hộ tịch là việc làm cho các chi tiết trong chứng thư phù hợp với sự thật hoặc hợp lý hơn. 

Chứng thư hộ tịch được phép thay đổi, cải chính và nội dung thay đổi, cải chính được phép. Luật hiện hành chỉ dự liệu việc thay đổi, cải chính hộ tịch đối với chứng thư khai sinh. Tất nhiên, một khi nội dung chứng thư khai sinh thay đổi hoặc được cải chính, thì các giấy tờ hộ tịch khác cũng phải được điều chỉnh trên cơ sở áp dụng quy định tại Ðiều 55 Nghị định số 83-CP đã dẫn. Vấn đề là phải làm thế nào trong trường hợp Giấy khai sinh không thay đổi cũng không có cải chính, nhưng các chứng thư hộ tịch khác lại có những chi tiết không phù hợp với Giấy khai sinh (ví dụ: Giấy chứng nhận kết hôn ghi tên, họ hoặc ngày sinh, nơi sinh không đúng so với giấy khai sinh)? Có lẽ, trong trường hợp này, vẫn phải dựa vào Ðiều 55 Nghị định đã dẫn để điều chỉnh các chứng thư hộ tịch khác, trên cơ sở đối chiếu nội dung của các chứng thư đó với nội dung của giấy khai sinh[11][11]. Mặt khác, Ðiều 55 chỉ nói về việc điều chỉnh các giấy tờ liên quan của người có hộ tịch được thay đổi, cải chính; nhưng nếu các dữ kiện được thay đổi, cải chính được ghi nhận trong giấy tờ của người khác, thì các giấy tờ của người sau này cũng phải được điều chỉnh (ví dụ: nếu tên cha được thay đổi, thì tên cha ghi trên Giấy khai sinh của con phải được điều chỉnh).    

Ðối tượng thay đổi bao gồm họ, tên, chữ đệm; đối tượng cải chính bao gồm họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh. Dân tộc của một người, nếu được xác định không đúng, có thể được xác định lại. Nơi sinh không được liệt kê trong các đối tượng được cải chính. Nói chung, các đối tượng có thể được cải chính rất giới hạn, trong khi bất kỳ ghi nhận nào trong chứng thự hộ tịch cũng có thể sai. Không thể nói rằng những chi tiết nào trong giấy khai sinh mà không thể được cải chính hoặc điều chỉnh, thì có thể được sửa chữa trong trường hợp có sai sót, theo thủ tục thông thường: làm thế nào lý giải những cách xử lý không giống nhau đối với các ghi chép khác nhau trên cùng một chứng thư hộ tịch ? Hẳn pháp luật về hộ tịch còn cần được hoàn thiện ở điểm này.  


Người yêu cầu thay đổi, cải chính.  Người có tên trong Giấy khai sinh có quyền yêu cầu thay đổi cải chính hộ tịch cho mình. Trong trường hợp người này chưa đủ 18 tuổi hoặc đã thành niên mà không có năng lực hành vi, thì việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người này do cha, mẹ hoặc người giám hộ yêu cầu (Nghị định đã dẫn Ðiều 53 khoản 2). Ðối với người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).  

Thẩm quyền và thủ tục thay đổi, cải chính. Cơ quan có thẩm quyền cho phép việc thay đổi, cải chính là UBND tỉnh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký khai sinh của người có đơn yêu cầu (Nghị định đã dẫn Ðiều 52).

Người có yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch phải nộp đơn kèm theo các giấy tờ cần thiết do luật quy định[12][12]. Ðơn phải nói rõ lý do và các nội dung xin thay đổi, cải chính, có xác nhận của UBND xã nơi người yêu cầu cư trú (Nghị định đã dẫn Ðiều 53 khoản 1). Trong trường hợp nơi nộp đơn không phải là nơi đăng ký khai sinh, thì đơn phải có xác nhận của UBND xã nơi đăng ký khai sinh (cùng điều luật).

Thời hạn giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch là 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sờ hợp lệ (Ðiều 53 khoản 2). Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch được đăng ký vào sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch do Sở tư pháp giữ và được ghi nhận trên bản chính giấy khai sinh của đương sự.

D. Giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch

Chưa có giải pháp chắc chắn. Luật viết hiện hành không có quy định rõ ràng về giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch. Thực tiễn, về phần mình, có xu hướng thừa nhận rằng chứng thư hộ tịch là bằng chứng về những việc đã được ghi nhận trong chứng thư đó: ngày sinh của một người được ghi trong giấy khai sinh là ngày sinh đích thực; việc một người được ghi tên trên giấy chứng tử cho phép tin rằng người có tên đó đã chết;… Luật không phân biệt giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch tuỳ theo ghi chép trên đó được hay không được viên chức hộ tịch đích thân và trực tiếp kiểm chứng.

Tuy nhiên, các bằng chứng được thiết lập bằng giấy khai sinh không phải là bằng chứng tuyệt đối, bởi, như ta đã biết, chứng thư hộ tịch có thể được cải chính hoặc thay đổi nội dung. Mặt khác, cần lưu ý rằng trong trường hợp có tranh cãi về tính xác thực của một ghi nhận nào đó trong giấy khai sinh, thì có vẻ như người bảo vệ giá trị của ghi nhận đó phải chứng minh về tính xác thực của nó, cũng như người bác bỏ ghi nhận đó phải tìm cách chứng minh về tính không xác thực của nó. Nói cách khác, cả hai bên trong một vụ tranh chấp về tính xác thực của một ghi nhận nào đó trong chứng thư hộ tịch đều có trách nhiệm chứng minh ngang nhau trong luật Việt Nam[13][13].    




III. Nơi cư trú

Sự cần thiết của việc xác định nơi cư trú. Hộ tịch giúp phân biệt một cá nhân với một cá nhân khác. Nhưng để xác lập và thực hiện các giao dịch với người khác, cá nhân phải ở trong tình trạng có thể được liên lạc. Cá nhân không liên lạc được không thể được coi là chủ thể hiện thực của quyền và nghĩa vụ pháp lý: người ta sẽ không biết làm thế nào gọi người đó đến để tiếp nhận việc thực hiện một nghĩa vụ hoặc để đáp ứng quyền yêu cầu của một người khác.   

Trong quan niệm truyền thống, đời sống pháp lý của cá nhân nhất thiết phải gắn với một nơi chốn nào đó. Luật gọi nơi chốn đó là nơi cư trú. Chế định nơi cư trú là biện pháp định vị cá nhân trong không gian, về phương diện pháp lý. Nơi cư trú phải là một điểm cố định trên lãnh thổ chứ không thể là một điểm di động. Điều đó cũng có nghĩa rằng mỗi người chỉ có một nơi cư trú: một người có nơi cư trú tại nhiều hơn một điểm cố định coi như luôn di động giữa các điểm cố định đó.    

Ta lần lượt nghiên cứu chức năng của nơi cư trú và cách xác định nơi cư trú.

A. Chức năng của nơi cư trú

Ðịa chỉ liên lạc của cá nhân và nơi lưu trữ các dữ kiện cơ bản về hộ tịch. Nơi cư trú theo nghĩa pháp lý không nhất thiết là nơi cư trú theo nghĩa vật chất. Con người có thể liên tục thay đổi nơi cư trú vật chất mà vẫn giữ cố định nơi cư trú pháp lý của mình.    

Về phương diện công pháp, nơi cư trú giữ vai trò địa chỉ liên lạc giữa cá nhân với Nhà nước, cụ thể hơn, với các cơ quan Nhà nước: nhà chức trách thuế vụ gửi giấy báo thuế đến nơi cư trú của người chịu thuế; hội đồng bầu cử gửi thẻ cử tri đến nơi cư trú của cử tri; hội đồng nghĩa vụ quân sự gửi giấy triệu tập để khám sức khoẻ và lệnh gọi nhập ngũ đến nơi cư trú của người phải thi hành nghĩa vụ quân sự;...

Ở góc độ tư pháp, chức năng của nơi cư trú khá đa dạng:

-   Thông thường, nơi cư trú đầu tiên của cá nhân, sau khi ra đời, cũng là nơi đăng ký khai sinh của cá nhân. Nơi đăng ký kết hôn là nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ; nới đăng ký khai tử là nơi cư trú cuối cùng của người chết; nơi cư trú của người xin thay đổi, cải chính hộ tịch là nơi đăng ký việc thay đổi, cải chính  hộ tịch;... Một cách tổng quát, nơi cư trú của cá nhân là nơi mà người ta có thể thu thập các thông tin về hộ tịch của cá nhân.
-   Trong trường hợp một nghĩa vụ tài sản có tính chất động sản được xác lập và các bên không có thoả thuận về nơi thực hiện nghĩa vụ, thì nơi này là nơi cư trú của người có quyền yêu cầu (BLDS Ðiều 289 khoản 2).
-   Trong các tranh chấp dân sự, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi cư trú của bị đơn, trừ trường hợp việc tranh chấp có liên quan đến bất động sản hoặc các bên tranh chấp có thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 Ðiều 13).          
B - Xác định nơi cư trú

Dựa vào các Ðiều từ 48 đến 53 BLDS, ta nói rằng có bốn cách xác định nơi cư trú: dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội, quan hệ gia đình, quan hệ nghề nghiệp và theo ý chí của đương sự.

1. Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội

Nơi cư trú, trên nguyên tắc, là nơi đăng ký thường trú. Theo BLDS Ðiều 48 khoản 1, nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú. Quy  tắc này có lẽ được áp dụng chủ yếu đối với người có đầy đủ năng lực hành vi hoặc từ đủ mười lăm tuổi trở lên và được phép có nơi cư trú riêng trong những trường hợp dự liệu tại các Ðiều 49 khoản 2 và 50 khoản 2 BLDS: người chưa thành niên dưới 15 tuổi có thể đăng ký thường trú nơi một nơi khác với nơi đăng ký thường trú của cha, mẹ hoặc người giám hộ, nhưng luôn có nơi cư trú (theo luật) trùng với nơi cư trú của những người sau này.

Người có hộ khẩu thường trú ở một nơi nhưng lại thường xuyên sinh sống ở một nơi khác, thì có nơi cư trú ở đâu ? Chưa cò câu trả lời chính thức trong luật thực định. Tuy nhiên, một khi cá nhân có đăng ký thường trú ở một nơi, thì các giao dịch về hộ tịch được thực hiện tại nơi này. Trong Thông tư số 12 ngày 25/6/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, thuật ngữ “nơi đăng ký thường trú” được dùng để chỉ “nơi cư trú”. Ðiều đó cho thấy xu hướng của người làm luật muốn khẳng định giải pháp nguyên tắc: nếu cá nhân có nơi đăng ký thường trú, thì, nơi cư trú là nơi đăng ký thường trú, dù cá nhân có thể thường xuyên sinh sống ở nơi khác. Nói cách khác, nơi đăng ký thường trú là tiêu chí thứ nhất để xác định nơi cư trú.  

Trường hợp cá nhân không có nơi đăng ký thường trú. Nếu cá nhân không có đăng ký thường trú ở bất kỳ nơi nào nhưng lại thường xuyên sinh sống ở một nơi, thì hẳn nơi này phải được coi là nơi cư trú của đương sự. Nếu cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng ký tạm trú (BLDS Ðiều 48 khoản 1).

Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú, không có nơi thường xuyên sinh sống và cũng không đăng ký tạm trú ở một nơi nào đó, thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc nơi có phần lớn tài sản, nếu tài sản của người đó ở nhiều nơi (BLDS Ðiều 48 khoản 2).
  
2 - Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ gia đình

Nơi cư trú của người chưa thành niên. Theo BLDS Ðiều 49 khoản 1, nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau, thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Trong trường hợp người chưa thành niên không có cha và mẹ, thì nơi cư trú của người này được xác định dựa theo các quy định về nơi cư trú của người được giám hộ. Nếu không có người giám hộ, thì hẳn phải xác định nơi cư trú của người chưa thành niên theo luật chung, nghĩa là dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội, đã được phân tích ở trên.

Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ, nếu được cha, mẹ đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Ðiều 49 khoản 2). Nơi cư trú khác của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên sẽ được xác định theo luật chung, dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội.

Nơi cư trú của người được giám hộ. Theo BLDS Ðiều 50 khoản 1, nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Và cũng như người chưa thành niên có cha hoặc mẹ, người được giám hộ từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có nơi cư trú riêng so với người giám hộ, nếu được người sau này đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Ðiều 50 khoản 2). Dù luật không nói rõ, người được giám hộ đủ 15 tuổi ở đây phải là người chưa thành niên: người thành niên được giám hộ là người mất năng lực hành vi và do đó, không có năng lực bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu.    

Nơi cư trú của vợ, chồng. Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau, nếu có thoả thuận (BLDS Ðiều 51 đoạn 2). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu không có thoả thuận, thì vợ, chồng coi như có cùng nơi cư trú. Ðiều 61 đoạn 1 nói rằng nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng sống chung và được xác định theo quy định tại Ðiều 48 BLDS. Tổng hợp các quy tắc vừa nêu, ta có thêm một quy tắc nữa: nếu vợ, chồng không có nơi sống chung mà cũng không có sự thoả thuận rành mạch về việc sống riêng, thì giữa hai người coi như có sự thoả thuận mặc nhiên về việc xác lập nơi cư trú riêng và nơi cư trú của mỗi người trong trường hợp này cũng được xác định theo Ðiều 48 BLDS. Quy tắc sau cùng này cần thiết trong trường hợp vợ và chồng sống trong tình trạng ly thân thực tế mà không cắt đứt quan hệ hôn nhân.    

3. Xác định nơi cư trú dựa vào các quan hệ nghề nghiệp

Nơi cư trú của quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng. Ở góc độ nơi cư trú có hai loại quân nhân - quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự và sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp. Luật quy định rằng quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự có nơi cư trú tại nơi đóng quân (BLDS Ðiều 52 khoản 1); còn nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp là nơi người này đăng ký thường trú, thường xuyên sinh sống hoặc nơi đăng ký tạm trú (Ðiều 52 khoản 2); chỉ khi nào không thể xác định nơi cư trú theo cách đó, thì sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp mới được coi là có nơi cư trú tại nơi đóng quân (cùng điều luật). Nơi cư trú của công nhân, viên chức quốc phòng được xác định tương tự như đối với quân nhân chuyên nghiệp (cùng điều luật).      

Nơi cư trú của người làm nghề lưu động. Những người làm nghề lưu động, theo định nghĩa của luật, là những người hoạt động nghề nghiệp trên tàu, thuyền hoặc phương tiện hành nghề lưu động khác (xe vận tải đường dài, chẳng hạn). Nơi cư trú của những người này được xác định là nơi đăng ký thường trú, nơi thường xuyên sinh sống hoặc nơi đăng ký tạm trú (Ðiều 53). Nếu không xác định được nơi cư trú theo cách đó, thì những người này coi như có nơi cư trú tại nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện mà trên đó người này hành nghề lưu động (cùng điều luật).    

4 - Xác định nơi cư trú theo ý chí của đương sự 

Nơi cư trú của chủ thể của một quan hệ đặc thù. Thông thường, quan hệ đặc thù đó hình thành trên cơ sở hợp đồng. Cứ hình dung: trong một hợp đồng có tác dụng xác lập các quyền và nghĩa vụ về tài sản, hai bên thống nhất lựa chọn một địa chỉ nào đó là nơi liên lạc của người có nghĩa vụ (hoặc của người có quyền yêu cầu), nhằm thực hiện hợp đồng đó. Việc lựa chọn nơi cư trú như thế được cho phép tại BLDS Ðiều 48 khoản 3. Thực ra, đây không phải là nơi cư trú theo đúng nghĩa: mỗi người chỉ có một nơi cư trú; và trong trường hợp nơi cư trú được lựa chọn để thực hiện một hợp đồng nào đó không phải là nơi cư trú được xác định như đã trình bày ở các phần trên, thì nơi cư trú được lựa chọn không phải là nơi cư trú thứ hai của đương sự.

Lợi ích của việc lựa chọn nơi cư trú có giới hạn: không có tranh chấp liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, nơi cư trú được lựa chọn là địa điểm liên lạc, trao đổi thông tin giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng; có tranh chấp và cần đến vai trò của Toà án, thì “Toà án nơi cư trú” được hiểu là Toà án nơi cư trú được lựa chọn theo thoả thuận và các giấy tờ, tài liệu được tống đạt, chuyển giao cho đương sự trong vụ án đến nơi cư trú được lựa chọn ấy. Trong mọi trường hợp, việc lựa chọn nơi cư trú để thực hiện hợp đồng không có hiệu lực đối với người thứ ba. Mặt khác, việc thay đổi nơi cư trú đã được lựa chọn chỉ có thể được thực hiện với sự thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng. Và một khi nghĩa vụ theo hợp đồng chấm dứt, thì nơi cư trú được lựa chọn cũng biến mất.                   

Mục II. Tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của cá nhân
 
Trên nguyên tắc, cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật từ khi được sinh ra cho đến khi chết. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp ngoại lệ, luật có thể thừa nhận tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của cá nhân trước khi cá nhân sinh ra hoặc phủ nhận tư cách đó ngay trong lúc cái chết sinh học của cá nhân còn chưa được xác định rõ. 

A - Cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật trước khi sinh ra

Tư cách chủ thể có điều kiện đối với một vài quan hệ pháp luật đặc thù. Có một nguyên tắc được quán triệt trong luật La-tinh và cũng được chấp nhận trong luật thực định Việt Nam: trẻ thành thai coi như sinh ra mỗi khi sự suy đoán đó có lợi cho trẻ ấy (infans conceptus pro nato habetur quoties de commodo agitur). Với nguyên tắc đó, cá nhân đã thành thai mà chưa sinh ra có thể hưởng một số quyền. Ví dụ: con đã thành thai trước khi người để lại di sản chết là người thừa kế của người chết, nếu sinh ra và còn sống (BLDS Ðiều 638 khoản 1). Song, tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của cá nhân trong trường hợp này luôn lệ thuộc vào điều kiện: cá nhân phải sinh ra và còn sống. Nếu không sinh ra hoặc sinh ra mà không còn sống, cá nhân coi như không bao giờ tồn tại như là chủ thể của quan hệ pháp luật. Mặt khác, tư cách chủ thể đó chỉ được thừa nhận cho một vài quan hệ pháp luật được luật xác định rõ, không phải cho tất cả quan hệ pháp luật. Tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của người chưa được sinh ra là tư cách chủ thể không hoàn hảo.

Thế nào là cá nhân sinh ra và còn sống ? Theo BLDS Điều 60 khoản 2, trẻ sơ sinh, nếu chết sau khi sinh, thì phải được khai sinh và khai tử; nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay, thì không phải khai sinh và khai tử. Có thể nhận thấy rằng luật thực định Việt Nam có xu hướng dựa vào chế định đăng ký khai sinh để thiết lập chứng cứ không thể đảo ngược về sự tồn tại của trẻ sơ sinh còn sống: được đăng ký khai sinh, trẻ được coi như sinh ra và còn sống, dù có thể chết ít lâu sau đó. Theo Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Điều 20, trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì phải đăng ký khai sinh[14][14].   

B. Cá nhân không còn là chủ thể quan hệ pháp luật ngay trong lúc cái chết sinh học chưa được ghi nhận

1.  Mất một phần tư cách chủ thể: cá nhân mất tích

Khái niệm. Cá nhân biệt tích mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết, gọi là cá nhân mất tích. Không chắc chắn về số phận của đương sự, đó là nét đặc trưng của tình trạng mất tích.

Sự mất tích có thể được duy trì không hạn định trong thời gian như là một tình trạng thực tế, chứ không phải là một tình trạng pháp lý, nếu không có ai yêu cầu Toà án ra một quyết định tuyên bố mất tích. Cả khi có người yêu cầu Toà án làm việc đó, thì không phải lúc nào Toà án cũng ra quyết định tuyên bố mất tích: tình trạng mất tích, với tư cách là một sự kiện pháp lý, có hai cấp độ - vắng mặt và mất tích.

a. Vắng mặt

Ðịnh nghĩa. Ðược coi là vắng mặt người biệt tích trong sáu tháng liền (BLDS Ðiều 84). Biệt tích, nghĩa là đương sự không còn xuất hiện ở nơi cư trú và cũng không để lại tin tức. Tình trạng vắng mặt không được xác nhận bằng một quyết định của Toà án. Khi có đơn yêu cầu, Toà án, trên cơ sở thừa nhận các bằng chứng về việc đương sự biệt tích từ sáu tháng liên tục trở lên, sẽ ra thông báo tìm kiếm đương sự theo các quy  định của pháp luật về tố tụng dân sự và chính thông báo này đặt cơ sở cho việc áp dụng các quy tắc chi phối tình trạng vắng mặt của cá nhân.

Người có quyền yêu cầu là bất kỳ người nào có quyền và lợi ích liên quan. Có vẻ như yêu cầu của người này phải được Toà án đáp ứng thuận lợi một khi các bằng chứng về sự vắng mặt tỏ ra thuyết phục. Toà án không có quyền từ chối ra thông báo với bất kỳ lý do gì, ví dụ, do theo Toà án thì nên kiên nhẫn chờ đợi thêm một ít lâu.   

Các quy tắc chi phối tình trạng vắng mặt của cá nhân. Về phương diện gia đình, nếu người vắng mặt có con chưa thành niên, thì con được đặt dưới sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ còn lại. Nếu không còn cha hoặc mẹ, thì, dù luật không quy định, con chưa thành niên phải có người giám hộ. Nếu người vắng mặt có vợ (chồng), thì tình trạng vắng mặt không ảnh hưởng đến việc duy trì quan hệ hôn nhân; vợ hoặc chồng của người vắng mặt không có quyền xin ly hôn chỉ vì mỗi lý do vắng mặt của người sau này.

Về phương diện tài sản, người vắng mặt được đại diện bởi người quản lý tài sản được Toà án chỉ định theo các quy định tại khoản 1 và khoản Ðiều 85 BLDS:

- Ðối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý, thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý;
- Ðối với tài sản chung, thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
- Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý, thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý;
- Nếu không có người được quy định như trên, thì Toà án chỉ định một người trong số người thân thích quản lý tài sản của người vắng mặt; nếu không có người thân thích, thì Toà án chỉ định một người khác quản lý tài sản.

Ta nhận thấy ngay rằng tài sản của người vắng mặt không nhất thiết được đặt dưới sự quản lý của một người. 

UBND xã, phường, thị trấn nơi có tài sản của người vắng mặt thực hiện giám sát việc quản lý tài sản đó (Ðiều 85 khoản 2). Luật hiện hành ấn định cho người quản lý tài sản của người vắng mặt các quyền và nghĩa vụ tương đối hạn chế đối với tài sản của người sau này (xem Ðiều 86 và 87)[15][15]. Người quản lý chỉ có quyền quản trị tài sản của người vắng mặt vì lợi ích của người sau này mà không gây thiệt hại cho người thứ ba. Người quản lý chắc chắn không có quyền yêu cầu chia tài sản mà người vắng mặt có quyền sở hữu chung, cũng không có quyền tham dự vào các vụ phân chia tài sản mà người vắng mặt có quyền sở hữu chung. Một cách tổng quát, người vắng mặt trên nguyên tắc không có khả năng xác lập các giao dịch pháp lý sau ngày bị xác định là vắng mặt, dù là xác lập thông qua vai trò của người quản lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong logique của sự việc, có thể thừa nhận rằng những giao dịch mới thực sự cần thiết cho việc bảo vệ các lợi ích tài sản của người vắng mặt vẫn có thể được người quản lý tài sản xác lập một cách hữu hiệu[16][16]. Vấn đề là luật không xây dựng cơ chế giám sát khách quan đối với việc xác lập và thực hiện các giao dịch ấy, để ngăn ngừa sự gian lận của người quản lý tài sản.                   





b. Mất tích

Ðịnh nghĩa. Ðược coi là mất tích người đã biệt tích (khỏi nơi cư trú) từ hai năm liên tục trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Vậy có nghĩa rằng tình trạng mất tích chỉ được xác nhận về phương diện pháp lý sau khi tình trạng vắng mặt đã được xác nhận do hiệu lực của việc thực hiện các biện pháp thông báo, tìm kiếm của Toà án. Vả lại, việc xác nhận mất tích  không đương nhiên mà phải trên cơ sở có đơn yêu cầu và có đủ các điều kiện để xác nhận theo quy định của luật, đặc biệt là điều kiện về thời gian biệt tích liên tục. Người yêu cầu tuyên bố mất tích phải là người có quyền và lợi ích liên quan, ví dụ, vợ (chồng).  

Một khi các chứng cứ về tình trạng mất tích được chấp nhận, Toà án ra quyết định tuyên bố mất tích đối với người vắng mặt.

Hiệu lực của quyết định tuyên bố mất tích. Quyết định tuyên bố mất tích hình như có hiệu lực ngay lập tức và không thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

Về phương diện gia đình, việc một người bị tuyên bố mất tích làm phát sinh các hệ quả tương tự như trong trường hợp một người được xác nhận là vắng mặt: nếu người này có vợ hoặc chồng và con chưa thành niên, thì con chưa thành niên được đặt dưới sự chăm sóc của vợ hoặc chồng; nếu con chưa thành niên không còn cha hoặc mẹ bên cạnh, thì chế độ giám hộ được áp dụng... Nhưng khác với vợ hoặc chồng của người vắng mặt, vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích có thể xin ly hôn vì lý do mất tích của người sau này (BLDS Ðiều 88 khoản 2).

Về phương diện tài sản, tình trạng mất tích chịu sự chi phối của cùng các quy tắc như tình trạng vắng mặt (Ðiều 89). Tuy nhiên, trong trường hợp người quản lý tài sản của người mất tích là người trước đây được uỷ quyền, thì việc uỷ quyền chấm dứt (BLDS Điều 594 khoản 4) và do đó chắc chắn người này chỉ còn lại những quyền năng hạn chế của một người quản lý tài sản của người mất tích, theo quy định tại Điều 86 và 87.   

Huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích, theo yêu cầu của người đó hoặc của bất kỳ người nào có quyền và lơi ích liên quan (Ðiều 90 khoản 1).

Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao, sau khi đã thanh toán chi phí quản lý (Ðiều 90 khoản 2). Nhưng trong trường hợp vợ hoặc chồng của người mất tích đã ly hôn theo một bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, thì quan hệ hôn nhân vẫn không thể được khôi phục: nếu muốn thiết lập lại quan hệ đó, hai người phải tiến hành lại thủ tục kết hôn. 




2. Mất hẳn tư cách chủ thể: cá nhân bị tuyên bố là đã chết

Ðịnh nghĩa. Cá nhân có thể bị tuyên bố là đã chết bằng một quyết định của Toà án, theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, trong những trường hợp sau đây (BLDS Ðiều 91 khoản 1):

- Sau ba năm, kể từ ngày có quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức là còn sống;
- Mất tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà không có tin tức là còn sống;
- Bị tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt mà vẫn không có tin tức là còn sống, trừ trường hợp  pháp luật có quy định khác về thời hạn;
- Biệt tích đã năm năm và không có tin tức là còn sống hoặc đã chết; thời hạn năm năm được tính theo quy định tại khoản 1 Ðiều 88 BLDS;

Trên cơ sở có quyết định tuyên bố là đã chết, người có quyền và lợi ích liên quan phải tiến hành đăng ký khai tử cho người bị tuyên bố là đã chết tại cơ quan hộ tịch.

Hiệu lực của quyết định tuyên bố là đã chết. Người bị tuyên bố là đã chết coi như là người chết (Ðiều 92): quan hệ hôn nhân chấm dứt; con chưa thành niên của người này, nếu không còn cha và mẹ sẽ được giám hộ; các tài sản của người này được chuyển giao cho người thừa kế theo các quy định của pháp luật về thừa kế.

Ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết do Toà án xác định tuỳ theo trường hợp (Điều 91 khoản 2); nếu không xác định được ngày đó, thì ngày mà quyết định của Toà án tuyên bố người đó là đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết. Vấn đề còn lại là ngày mà quyết định của Toà án tuyên bố là một người đã chết có hiệu lực pháp luật là ngày nào. Được ban hành trước khi có BLDS, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không ghi nhận sự tồn tại của quyết định loại này và do đó, không thể có các quy định liên quan đến hiệu lực của loại văn kiện này.  

Huỷ  bỏ quyết định tuyên bố là đã chết. Trong trường hợp người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, theo yêu cầu của người đó hoặc người có quyền và lợi ích liên quan (Ðiều 93 khoản 1). Luật không dự kiến trường hợp không có ai yêu cầu huỷ việc tuyên bố là đã chết, dù người bị tuyên bố là đã chết đã trở về: liêu Viện Kiểm sát có quyền nhân danh trật tự công cộng để yêu cầu?  

Người  bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người thừa kế trả lại tài sản hiện còn (Ðiều 93 khoản 3). Trong trường hợp người thừa kế của người chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế, thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận; nếu gây thiệt hại, thì phải bồi thường (cùng điều luật). Quyền lợi của người thứ ba giao dịch với người thừa kế được xác định tuỳ theo người thứ ba ngay tình hoặc không ngay tình.

Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác, thì hôn nhân sau vẫn có hiệu lực pháp luật sau khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố là đã chết (Ðiều 93 khoản 2). Các quan hệ khác về nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống được khôi phục (cùng điều luật). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống chưa kết hôn với người khác, thì quan hệ hôn nhân giữa hai người được lập lại sau khi có quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố là đã chết. Giải pháp này được khẳng định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 26[17][17].

Mục III. Bảo vệ tình trạng không có năng lực hành vi
 
Khái niệm về tình trạng không có năng lực hành vi.  Gọi là không có năng lực hành vi người ở trong tình trạng không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà mình là chủ thể. Tình trạng không có năng lực hành vị, trong luật thực định Việt Nam, có hai cấp độ:

- Hoàn toàn không có năng lực hành vi - Những người hoàn toàn không có năng lực hành vi bao gồm người chưa đủ sáu tuổi và người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể làm chủ được hành vi của mình và bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi (Ðiều 23 và 24).
- Có năng lực hành vi không đầy đủ - Người có năng lực hành vi không đầy đủ là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi[18][18]: người này chỉ có thể xác lập các giao dịch phục vụ cho như cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi; người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên chỉ có thể xác lập các giao dịch quan trọng, nếu có tài sản riêng đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và nếu pháp luật không có quy định khác (Điều 22).

Bảo vệ người không có năng lực hành vi trong đời sống dân sự. Người không có năng lực hành vi có thể có các quyền và nghĩa vụ dân sự; tuy nhiên, trên nguyên tắc, luật không cho phép người này tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó, bởi trong hàu hết các trường hợp, người này không đủ khả năng nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của các quyền và nghĩa vụ mà mình là chủ thể. Luật nói rằng người không có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất thiết phải được đại diện trong quá trình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.

Chế độ đại diện cho người không có năng lực hành vi không giống nhau, tuỳ theo người được đại diện là người chưa thành niên hoặc đã thành niên.

A. Ðại diện cho người chưa thành niên

Người chưa thành niên có thể được đại diện bởi cha, mẹ hoặc người giám hộ.

1. giám hộ đối với người chưa thành niên

Khái niệm. Giám hộ đối với người chưa thành niên là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc bảo vệ và chăm sóc đối với người chưa thành niên (BLDS Ðiều 67 khoản 1).

Trong những trường hợp nào người chưa thành niên cần có người giám hộ ?. Ðược giám hộ, người chưa thành niên nào không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên và có yêu cầu cử giám hộ (Ðiều 67 khoản 2 điểm a). Cũng được giám hộ, người chưa thành niên có cha, mẹ vắng mặt hoặc mất tích.

Việc cử người giám hộ là bắt buộc trong trường hợp người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi mà rơi vào các trường hợp nêu ở trên (Ðiều 67 khoản 3).

Tổ chức việc giám hộ. Có hai loại người tham gia vào việc giám hộ: người giám hộ và người giám sát việc giám hộ.

a - Người giám hộ - Chỉ có thể làm giám hộ, người đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ (Ðiều 69)[19][19]. Một người có thể làm giám hộ cho nhiều người. Việc chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên được thực hiện theo các quy định tại các Ðiều 70 và 72 BLDS, cụ thể:
- Nếu người chưa thành niên có anh, chị đã thành niên, thì anh, chị cả là giám hộ đương nhiên; nếu anh, chị cả không đủ điều kiện để làm người giám hộ, thì anh, chị tiếp theo là giám hộ đương nhiên; nếu không có anh, chị hoặc anh, chị không đủ điều kiện làm người giám hộ, thì ông, bà nội, ông bà ngoại  là giám hộ đương nhiên;
- Nếu không có giám hộ đương nhiên, thì những người thân thích của đương sự cử một người trong số họ làm người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích đủ điều kiện làm người giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ; nếu những người thân thích không cử được người giám hộ, thì UBND xã, phường, thị trấn (nơi người được giám hộ cư trú) phối hợp với các tổ chức xã hội tại cơ sở cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ; nếu vẫn không cử được người giám hộ theo cách đó, thì UBND xã, phường, thị trấn đề nghị cơ quan lao động, thương binh và xã hội nơi cư trú của người được giám hộ đảm nhận trách nhiệm giám hộ. Các giải pháp về cử người giám hộ cho người chưa thành niên thể hiện tính nhân văn rất cao của luật viết Việt Nam hiện hành.

Nếu không phải trong trường hợp giám hộ đương nhiên, thì việc giám hộ chỉ có giá trị một khi người giám hộ (được cử) đồng ý nhận nhiệm vụ giám hộ. Việc cử người giám hộ phải được ghi nhận bằng văn bản, được đăng ký và công nhận tại UBND xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Người giám hộ đương nhiên không cần có văn bản, cũng không phải đăng ký tư cách giám hộ của mình.

b - Giám sát việc giám hộ - Việc giám sát hoạt động của người giám hộ, trong luật thực định Việt Nam, không phải là công việc của gia đình của người được giám hộ, mà là của UBND xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Theo Ðiều 68 BLDS, UBND có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ; xem xét, giải quyết kịp thời những đề nghị, khiếu nại của người được giám hộ liên quan đến việc giám hộ. Có thể nghĩ rằng không chỉ có người được giám hộ mà cả người thân thích của người này và các tổ chức bảo vệ quyền trẻ em cũng có quyền đề nghị, khiếu nại liên quan đến việc giám hộ. 

Cơ chế hoạt động giám hộ - Người được giám hộ, nếu chưa đủ sáu tuổi, chỉ có thể xác lập, thực hiện các giao dịch thông qua vai trò của người giám hộ (Ðiều 23). Ta nói rằng cho đến khi đủ sáu tuổi, người được giám hộ được đặt dưới chế độ giám hộ toàn phần.

Người được giám hộ từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự mình xác lập các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, các giao dịch khác chỉ có thể được xác lập và thực hiện với sự đồng ý của người giám hộ (Ðiều 22); cá biệt, người đủ 15 tuổi mà chưa đủ 18 tuổi, nếu có tài sản riêng đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập các giao dịch, trừ những giao dịch mà luật đòi hỏi có sự đồng ý của người giám hộ (cùng điều luật), ví dụ, lập di chúc để định đoạt tài sản sau khi chết (Ðiều 655 khoản 2) hoặc định đoạt tài sản có giá trị lớn, dùng tài sản để đầu tư kinh doanh (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 46)[20][20]. Ta nói rằng người được giám hộ từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được đặt dưới chế độ giám hộ từng phần.

Nghĩa vụ của người giám hộ - Các nghĩa vụ của người giám hộ đối với người chưa thành niên được quy định tại các Ðiều 75, 76 và 79 BLDS. Ta lưu ý một vài điểm:

-  Người giám hộ trong luật Việt Nam không phải lập danh mục tài sản của người được giám hộ. Luật nói rằng trong văn bản cử người giám hộ phải ghi rõ tình trạng tài sản của người được giám hộ. Có thể, các ghi nhận đó thay thế cho danh mục tài sản. Song, không có quy định tương tự trong trường hợp giám hộ đương nhiên.
-  Người giám hộ phải quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình, nghĩa là phải tránh làm mất mát, hư hỏng tài sản và bảo đảm sức sinh lợi của tài sản.
-   Người giám hộ không chỉ nói đồng ý hay không đồng ý để người được giám hộ xác lập giao dịch mà còn phải đại diện cho người sau này trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch đó.
-  Người giám hộ đối với người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ, trong khi người giám hộ cho người chưa thành niên đủ 15 tuổi không có nghĩa vụ này. 

Quyền của người được giám hộ - Các quyền của người giám hộ được quy định tại các Ðiều 78 và 79 BLDS. Ở đây ta lưu ý một vài điểm:

- Người giám hộ có quyền sử dụng và định đoạt các tài sản của người được giám hộ, với điều kiện việc sử dụng và định đoạt đó phải phù hợp với lợi ích của người được giám hộ. Người giám hộ không có quyền tặng cho người khác tài sản của người được giám hộ, cũng không có quyền thay mặt người được giám hộ chấp nhận một di sản không có khả năng thanh toán hay từ chối một di sản có khả năng thanh toán. Người giám hộ chỉ có thể bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ (và có lẽ cả việc bảo lãnh bằng tài sản của người được giám hộ) một khi có sự đồng ý của UBND xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú.
- Người giám hộ không được xác lập các giao dịch với người được giám hộ liên quan đến tài sản của người sau này.
- Người giám hộ có quyền được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ.

Thay đổi người giám hộ - Theo BLDS Ðiều 80 khoản 1, việc thay đổi người giám hộ có thể được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Cá nhân là người giám hộ không còn có đủ các điều kiện quy định tại Ðiều 69 BLDS;
- Cá nhân là người giám hộ chết, bị Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự;
- Có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc người giám hộ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ;
- Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác có đủ điều kiện nhận làm giám hộ.

Việc thay đổi người giám hộ phải được thực hiện theo thứ tự do luật quy định: người giám hộ đương nhiên được thay thế bằng người giám hộ đương nhiên kế tiếp; việc cử người giám hộ chỉ được thực hiện một khi không có giám hộ đương nhiên, và cũng phải theo trật tự thiết lập tại Ðiều 72 BLDS.

Việc chuyển giao việc giám hộ của người giám hộ được cử được quy định tại Ðiều 81 BLDS: phải lập thành văn bản có ghi nhận tình trạng tài sản của người được giám hộ; phải được sự chứng kiến và công nhận của UBND nơi người giám hộ mới cư trú;...     
 
Chấm dứt việc giám hộ. Việc giám hộ đối với người chưa thành niên chấm dứt trong các trường hợp được dự liệu tại Ðiều 82 BLDS, đặc biệt, khi người được giám hộ đã thành niên, chết, hoặc khi cha, mẹ của người được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền đại diện theo luật đối với con chưa thành niên của mình.

Trong thời hạn 3 tháng kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ phải thanh toán tài sản với người được giám hộ hoặc với cha, mẹ của người này (Ðiều 83 khoản 1). Trong trường hợp người được giám hộ chết, thì trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, người giám hộ phải thanh toán tài sản cho những người thừa kế của người chết; nếu chưa tìm được người thừa kế, thì người giám hộ tiếp tục quản lý tài sản của người chết (như một người quản lý thực tế di sản) cho đến khi tài sản được giải quyết theo các quy định của pháp luật về thừa kế và thông báo cho UBND xã, phường, thị trấn  nơi người giám hộ cư trú (cùng điều luật).

Việc thanh toán tài sản được thực hiện với sự giám sát của người cử người giám hộ (nếu có) và UNBD xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú (cùng điều luật).  

2. Ðại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên

Ðại diện đương nhiên. Trừ những trường hợp được luật dự kiến, con chưa thành niên đương nhiên được cha, mẹ đại diện trong các quan hệ với người thứ ba, nhất là trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch mà con chưa thành niên không có quyền tự mình xác lập và thực hiện (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 39).

Cơ chế đại diện. Việc đại diện theo pháp luật của cha, mẹ đối với con chưa thành niên được chi phối chủ yếu bởi các quy định trong BLDS (Ðiều 22, 23 và Chương VI - Ðại diện) và trong Luật hôn nhân và gia đình năm năm 2000 (đặc biệt là các Ðiều 45 và 46). Nói chung, sự đại diện của cha, mẹ đối với con chưa thành niên cũng giống như sự đại diện của người giám hộ đối với người được giám hộ: việc đại diện mang tính chất toàn phần hay từng phần tuỳ theo con đã đủ hay chưa đủ 6 tuổi. Mặt khác, nếu con có đủ cha và mẹ nhưng một trong hai người không có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ, thì người còn lại là người có đầy đủ quyền đại diện cho con chưa thành niên.

Dẫu sao, nếu cha và mẹ cùng đại diện cho con, thì mọi giao dịch xác lập dưới danh nghĩa và vì lợi ích của con đều phải được sự đồng ý của cả cha và mẹ. Luật chưa dự liệu vai trò của Toà án trong trường hợp cha và mẹ không thống nhất ý kiến. Có vẻ như nếu cha, mẹ không thống nhất ý kiến, thì hoặc cha hoặc mẹ đại diện cho con trong các giao dịch thông thường; còn các giao dịch quan trọng sẽ rơi vào chỗ bế tắc.    

Mặt khác, luật không ghi nhận vai trò giám sát của UBND địa phương đối với việc thực hiện quyền của cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên, như trong trường hợp giám hộ người chưa thành niên.

Con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên chỉ có thể lập di chúc với sự đồng ý của cha, mẹ (BLDS Ðiều 655 khoản 2). Nhưng, con chưa thành niên đủ 15 tuổi có quyền tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 45 khoản 1). Nói chung, khi con chưa thành niên đủ 15 tuổi, thì vai trò đại diện của cha mẹ mất dần tính chất bảo hộ và mang nhiều hơn tính chất hỗ trợ, hướng dẫn.      

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện.  Các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc đại diện theo luật cho con chưa thành niên được quy định trong các văn bản luật chủ yếu là các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 46 khoản 1, trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con, thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên.

Có thể tin rằng cũng như người giám hộ không có quyền tặng cho tài sản của người được giám hộ, cha, mẹ không có quyền tặng cho tài sản của con chưa thành niên. Thế nhưng, cha, mẹ có quyền bán, cầm cố tài sản của con mà không cần xin phép UBND địa phương nơi cư trú như người giám hộ bán, cầm cố tài sản của người được giám hộ. Có thể mở rộng giải pháp này cho tất cả các trường hợp định đoạt có đền bù (có hoặc không có điều kiện) đối với tài sản của con chưa thành niên, như trao đổi, thế chấp bất động sản,... cũng như các trường hợp các giao dịch quan trọng có tính chất quản trị tài sản, như  cho thuê, cho vay,... tài sản.     

Trong trường hợp con chưa thành niên đủ 15 tuổi tự mình quản lý tài sản, thì có quyền tự mình định đoạt tài sản, dù vai trò đại diện của cha mẹ chưa chấm dứt (Luật hôn nhân và gia đình Điều 46 khoản 2); tuy nhiên, việc định đoạt các tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh phải có sự đồng ý của cha mẹ (cùng điều luật). 

Chấm dứt việc đại diện. Việc đại diện theo luật của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chấm dứt khi con thành niên hoặc chết. Nếu con không có năng lực hành vi dân sự, dù đã thành niên, thì việc đại diện theo luật cũng chấm dứt và được thay thế bằng chế độ giám hộ đương nhiên của cha, mẹ (BLDS Ðiều 71 khoản 3). Luật không quy định việc thanh toán tài sản giữa cha mẹ và con chưa thành niên sau khi việc đại diện chấm dứt.

B. Ðại diện cho người đã thành niên

Có hai trường hợp trong đó, người đã thành niên phải được đại diện: người đã thành niên mất năng lực hành vi và người đã thành niên bị hạn chế năng lực hành vi.                                    

1. Ðại diện cho người đã thành niên mất năng lực hành vi

Giám hộ. Theo BLDS Ðiều 67 khoản 2 điểm b và khoản 3, thì người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì phải có người giám hộ. Tình trạng bệnh tật phải được cơ quan giám định có thẩm quyền xác nhận. Thực ra, chỉ riêng việc xác nhận tình trạng bệnh tật của đương sự chưa đủ để đặt đương sự dưới chế độ giám hộ. Cần có một người nào đó có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố đương sự mất năng lực hành vi (BLDS Ðiều 24 khoản 1).

Giám hộ đương nhiên. Một khi người đã thành niên mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình bị Toà tuyên bố mất năng lực hành vi, thì những người sau đây, theo thứ tự, sẽ trở thành giám hộ đương nhiên của người đó (Ðiều 71): vợ hoặc chồng, con cả, con kế tiếp, cha, mẹ. Quan hệ giám hộ đương nhiên phát sinh một cách đương nhiên do hiệu lực của bản án đặt người được giám hộ vào tình trạng mất năng lực hành vi.

Giám hộ được cử. Trong trường hợp một người bị tuyên bố mất năng lực hành vi không có người giám hộ đương nhiên, thì những người thân thích của người đó cử một người trong số họ làm giám hộ (Ðiều 72); nếu không có ai trong số những người thân thích đủ điều kiện làm giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm giám hộ (cùng điều luật). Nói chung, việc cử người giám hộ cho người đã thành niên chịu sự chi phối của cùng các quy định áp dụng đối với việc cử người giám hộ cho người chưa thành niên.
Cơ chế giám hộ. Người bị tuyên bố không có năng lực hành vi không có quyền tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Mọi giao dịch của người này đều do người giám hộ xác lập, thực hiện (Ðiều 24 khoản 2). Ðiều đó có nghĩa rằng các giao dịch do người được giám hộ tự mình xác lập và thực hiện sau ngày được đặt dưới sự giám hộ có thể bị tuyên bố vô hiệu (Ðiều 140 khoản 1). Luật không có quy định rõ về giá trị của các giao dịch do người này xác lập trước ngày được giám hộ. Nói chung, giao dịch do người không có năng lực hành vi xác lập có thể bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của người giám hộ, không phân biệt giao dịch được xác lập trước hay sau ngày giám hộ; nhưng các giao dịch do người được giám hộ xác lập trước ngày bị tuyên bố mất năng lực hành vi chỉ có thể bị vô hiệu hoá trong trường hợp người được giám hộ không nhận thức được hành vi của mình lúc xác lập giao dịch.

Chắc chắn, người giám hộ không có quyền lập di chúc thay cho người được giám hộ. Người sau này, về phần mình, không có quyền lập di chúc sau ngày được đặt dưới chế độ giám hộ. Các di chúc do người được giám hộ lập trước ngày được đạt dưới chế độ giám hộ có thể bị tuyên bố vô hiệu, một khi có bằng chứng cho thấy người này không minh mẫn, sáng suốt  lúc di chúc được lập (Ðiều 655 khoản 1 điểm a). Nếu người được giám hộ không lập di chúc hữu hiệu trước ngày được đặt dưới chế độ giám hộ, thì khi người này chết, di sản của người này được chuyển giao theo pháp luật.

Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ. Người giám hộ cho người đã thành niên mất năng lực hành vi có các quyền và nghĩa vụ giống như người giám hộ cho người chưa thành niên dưới 15 tuổi, trừ nghĩa vụ giáo dục người được giám hộ. Ngoài ra, người giám hộ cho người đã thành niên còn có trách nhiệm chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ.

Chấm dứt việc giám hộ. Việc giám hộ cho người đã thành niên mất năng lực hành vi chấm dứt khi người được giám hộ chết hoặc khi có quyết định của Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố đương sự bị mất năng lực hành vi. Hẳn quyết định của Toà án chỉ được ra trên cơ sở kết luận của cơ quan giám định có thẩm quyền. Người yêu cầu ra quyết định có thể là người giám hộ, đương sự hoặc bất kỳ người nào có quyền và lợi ích liên quan.

Sau khi việc giám hộ chấm dứt, người giám hộ tiến hành thanh toán tài sản giống như trong trường hợp giám hộ cho người chưa thành niên. 

2. Ðại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Khái niệm. Theo BLDS Ðiều 25 khoản 1, thì người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và bị Toà án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan[21][21]. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể đã thành niên hoặc chưa thành niên. Người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhất thiết phải có đủ điều kiện như một người giám hộ, dù luật không quy định rõ. Người này được chỉ định theo một quyết định của Toà án (Ðiều 25 khoản 2). Việc đại diện không phải được đăng ký tại UBND như việc giám hộ.

Cơ chế đại diện. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự. Cũng như người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, các giao dịch khác đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện với sự đồng ý của người đại diện (Ðiều 25 khoản 2)[22][22]. Dẫu sao, có thể tin rằng khác với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể lập di chúc mà không cần có sự đồng ý của người đại diện: chỉ cần người bị hạn chế năng lực hành vi sáng suốt, minh mẫn, tự nguyện trong lúc lập di chúc, thì di chúc, một khi thoả mãn các điều kiện theo luật chung, sẽ có giá trị. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng có thể kết hôn mà không cần sự đồng ý của người đại diện.

Phạm vi đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do Toà án quyết định (cùng điều luật). Kết hợp các quy định liên quan, ta kết luận rằng các giao dịch mà người bị hạn chế năng lực hành vi được phép xác lập, tự mình hoặc có sự đồng ý của người đại diện, bao gồm: các giao dịch nhỏ, các giao dịch mà đương sự không thể giao cho người khác thực hiện, dù không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, và các giao dịch mà người đại diện được phép thực hiện dưới danh nghĩa của đương sự trong phạm vi đại diện do Toà án xác định.

Không như người giám hộ, người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không chịu sự giám sát của UBND địa phương nơi cư trú trong quá trình thực hiện việc đại diện. Người được đại diện, về phần mình, có nơi cư trú của mình chứ không được coi như có nơi cư trú tại nơi cư trú của người đại diện, như người giám hộ. Tất cả những điều này có thể được lý giải bởi việc người bị hạn chế năng lực hành vi không mất khả năng nhận thức và không bị mất quyền năng tự mình xác lập giao dịch như người mất năng lực hành vi. 
           
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện. Luật không có quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Có lẽ người này có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ trong phạm vi đại diện do Toà án quyết định (Ðiều 25 khoản 2), được vận dụng trong điều kiện giao dịch nhân danh người bị hạn chế năng lực hành vi vẫn do người sau này xác lập. Song, người này không có trách nhiệm xác định tình trạng tài sản của người được đại diện. Một cách hợp lý, người đại diện cũng có thể được thay đổi, nhưng luật không có quy định về những trường hợp được phép thay đổi người đại diện và, do đó, không dự liệu các thủ tục về chuyển giao quyền đại diện. Việc đại diện chấm dứt trong trường hợp người được đại diện chết hoặc được khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ.       

Chương II. Pháp nhân


Khái niệm. Cá nhân, trong xã hội có tổ chức, không thể sống và hoạt động một cách cô lập. Có những lý do khác nhau để cá nhân luôn gắn bó với các cá nhân khác trong quá trình tồn tại của mình. Trên cơ sở quan hệ thân thuộc và quan hệ hôn nhân, các cá nhân sống trong cùng một gia đình. Các quan hệ chính trị liên kết các cá nhân, các gia đình và đặt cơ sở cho sự tạo thành quyền lực công cộng - Nhà nước và chính quyền địa phương.  Nhắm đến cùng một mục đích hoặc quan tâm đến cùng một quyền lợi, các cá nhân liên kết với nhau và tạo thành một nhóm người có tổ chức đồng thời tập họp các nỗ lực cá nhân để thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ tổ chức đó, nhằm đạt đến mục đích chung hoặc bảo vệ quyền lợi chung.

Vấn đề là các quy tắc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân không đủ để chi phối các quan hệ phát sinh từ sự hình thành các nhóm cá nhân có tổ chức: một mặt, nếu giữa lợi ích riêng và lợi ích chung có sự mâu thuẫn, thì cá nhân luôn có thiên hướng hy sinh lợi ích chung để bảo vệ lợi ích riêng; mặt khác, thời gian tồn tại  của nhóm sẽ không dài thời gian tồn tại của cá nhân, trong khi người giao dịch với nhóm có thể còn sống sau khi tất cả các thành viên trong nhóm đều chết.

Ðể bảo vệ tốt lợi ích chung của nhóm cũng như lợi ích của người thứ ba có quan hệ với nhóm, cần công nhận sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Luật đáp ứng yêu cầu đó bằng cách thừa nhận cho nhóm có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Nhóm được coi như có nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Ðược nhân cách hoá, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Một con người trừu tượng, nhóm thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các cơ quan của nhóm, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt động của nhóm. Luật gọi những nhóm như thế là những pháp nhân.                  

Ta lần lượt tìm hiểu lịch sử của chế định pháp nhân, tính chất pháp lý của pháp nhân, phân loại pháp nhân và chế độ pháp lý của pháp nhân trong luật thực định Việt Nam.

Mục I. Lịch sử của chế định pháp nhân


Pháp nhân trong luật phương Tây. Trong luật La Mã, quan niệm về pháp nhân hình thành tương đối muộn. Thoạt tiên, tư cách pháp nhân chỉ được thừa nhận cho Nhà nước; sau đó, pháp nhân Nhà nước còn được gán cho một số định chế công pháp của Ðế quốc La Mã: thành bang, khu tự quản, thuộc địa,...Vào thời kỳ cuối, luật thừa nhận có hai loại pháp nhân tư pháp: universitates personarum, gồm những người có cùng các hoạt động nghề nghiệp; và universitates bonorum, để chỉ những nhóm người hoạt động trong các lĩnh vực từ thiện hoặc phúc lợi chung. Pháp nhân tư pháp trong Luật La Mã chỉ được phép thành lập một khi có giấy phép của chính quyền. Vả lại, đó chỉ được coi như sự mở rộng diện những nhóm người được hưởng tư cách pháp nhân Nhà nước: chính là theo khuôn mẫu Nhà nước mà các pháp nhân tư pháp chiếm hữu tài sản chung của các thành viên, có ngân quỹ chung và được điều hành nhờ có vai trò của người quản lý. Cần lưu ý rằng chính quyền La Mã chỉ cấp giấy phép cho các nhóm người hoạt động không vụ lợi và những nhóm hoạt động có thu lợi nhuận mà có quan hệ với Nhà nước hoặc giữ một vai trò công cộng. Các hội hoạt động để thu lợi nhuận cho riêng mình, tương ứng với các công ty thương mại trong luật đương đại, nói chung, không có tư cách pháp nhân: đối với người La mã, các hội này được coi như những nhóm cá nhân hình thành từ các hợp đồng (gọi là hợp đồng lập hội), có tài sản mà họ đưa vào một dự án đầu tư chung để tìm kiếm các lợi ích vật chất.
 
Dưới chế độ phong kiến, các nhóm có mục đích không vụ lợi cũng chỉ được thành lập và hoạt động nếu có giấy phép của nhà vua và, một khi có giấy phép, nhóm đương nhiên được hưởng quy chế của pháp nhân. Các nhóm có mục đích thu lợi nhuận từ hoạt động của mình (các hội thương mại) không phải xin giấy phép, nhưng các nhóm này không có tư cách pháp nhân: tài sản của nhóm thuộc sở hữu chung của các thành viên; chỉ đối với các chủ nợ xác lập giao dịch với cả nhóm trong khuôn khổ thực hiện mục tiêu hoạt động của nhóm, thì các tài sản ấy coi như được sử dụng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của nhóm. Một vài nhóm có tính chất của một công ty đối vốn, tỏ ra hữu ích đối với việc củng cố quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, được thừa nhận có tư cách pháp nhân, thậm chí, được giao phó một phần quyền lực công cộng. Trường hợp Công ty Ðông Ấn (một công ty khai thác thuộc địa lớn) là một ví dụ.

Luật phương Tây đương đại thừa nhận tư cách pháp nhân của các nhóm hình thành trong khuôn khổ pháp luật, áp dụng Ðiều 20 Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp Quốc: tất cả mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội. Các nhóm hoạt động nhằm thu lợi nhuận được thành lập mà không cần giấy phép và có tư cách pháp nhân từ lúc việc thành lập được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.     

Pháp nhân trong luật Việt Nam. Luật cổ Việt Nam không xây dựng khái niệm pháp nhân. Chỉ trong luật cận đại, pháp nhân mới bắt đầu được nhắc đến như một khái niệm vay mượn từ luật học phương Tây. Trong luật viết thời kỳ thuộc địa,  pháp nhân được hiểu như một nhóm người được tập họp lại để thực hiện một hay nhiều mục đích nhất định và được luật thừa nhận  có khả năng đảm nhận tư cách chủ thể của các quyền và nghĩa vụ, bao gồm (BLDS Bắc Ðiều 284 và 289; BLDS Trung Ðiều 392 và 293): Nhà nước, Tỉnh, Thị tứ, Làng, Phường hoặc Phố, Thôn, Giáp (nhóm hình thành từ nhiều gia đình gắn bó với nhau do có những lợi ích chung đặc biệt trong lĩnh vực thờ cúng), Xóm (nhóm hình thành từ những gia đình gắn bó với nhau do quan hệ láng giềng hoặc quan hệ phát sinh từ hoạt động nông nghiệp), các hiệp hội được cho phép thành lập và các công ty thương mại được thành lập đúng luật.

Cho đến cuối những năm 1980, luật Việt Nam hiện đại không có các quy định có hệ thống về pháp nhân, nhưng vẫn sử dụng thuật ngữ này trong các văn bản pháp luật. Tư cách pháp nhân được thừa nhận cho một số cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, cho các doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật đầu tư. Dấu hiệu đặc trưng của tư cách đó về mặt hành chính, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, bao gồm: 1. có con dấu riêng; 2. có tài khoản riêng.      

Học thuyết pháp lý về phần mình, đã dựa vào tập quán giao dịch để xây dựng một hệ thống các điều kiện mà một nhóm người cần hội đủ để có thể được thừa nhận là có tư cách pháp nhân: 1 - Ðược thành lập một cách hợp pháp; 2 - Có tên gọi riêng và có trụ sở riêng; 3 - Có tài sản riêng; 4 - Có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Ta thấy ngay rằng luật chỉ thừa nhận tư cách pháp nhân của những tổ chức được cho phép thành lập.        

Khi hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989, Nghị định số 17-HÐBT ngày 16/1/1990, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, ghi nhận các điều kiện cơ bản mà một nhóm hoạt động nhằm thu lợi nhuận phải có đủ, để được hưởng tư cách pháp nhân, như sau: 1 - Ðược thành lập một cách hợp pháp; 2- Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng tài sản đó; 3- Có quyền quyết định một cách độc lập về hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình; 4- Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật. Khái quát hoá quan niệm về pháp nhân được xây dựng như trên Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29/4/1991 thừa nhận rằng các dấu hiệu cơ bản của pháp nhân bao gồm (Ðiều 4 khoản 2): 1 - Có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; 2 - Tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước Toà án; 3 - Ðược thành lập hợp pháp và được pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập.

BLDS năm 1995 chính thức thừa nhận pháp nhân như là một chủ thể của quan hệ pháp luật và định nghĩa pháp nhân như là một tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, và nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập (BLDS Ðiều 94). Theo định nghĩa đó, luật thừa nhận tư cách pháp nhân của những tổ chức sau đây (Ðiều 110): cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác có đủ các điều kiện ghi nhận tại định nghĩa nêu trên. Cũng như trong luật hiện đại phương Tây, luật thực định Việt Nam thừa nhận có những pháp nhân hình thành không phải từ việc kết nhóm của các nhân có cùng mục đích: Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999 thừa nhận khá năng thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân độc lập với tư cách pháp nhân của thành viên thành lập công ty.      

Mục II. Tính chất pháp lý của pháp nhân


Có hai quan niệm trái ngược trong luật phương Tây. Luật Việt Nam đang xây dựng một quan niệm dung hoà.

Quan niệm về tính hư cấu của pháp nhân. Vào thế kỷ thứ XIX, nhiều nhà luật học Pháp và Ðức cho rằng pháp nhân, suy cho cùng, chỉ là một hư cấu do người làm luật dựng nên nhằm tạo thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ giữa một nhóm người với người thứ ba. Lợi ích, mục đích của pháp nhân, suy cho cùng, là lợi ích, mục đích chung của các cá nhân trong nhóm; và quyền sở hữu của pháp nhân đối với tài sản của nhóm chỉ hình một cách diễn đạt khác của quyền sở hữu chung của các thành viên trong nhóm đối với các tài sản đó. Tư cách pháp nhân của nhóm do người làm luật ban cho, như một ân huệ, một món quà tặng, và có thể bị người làm luật tước bỏ, nếu muốn. Về năng lực, pháp nhân chỉ được phép hưởng những quyền do pháp luật xác định: tình trạng không có năng lực của pháp nhân là giải pháp nguyên tắc, tình trạng có năng lực của pháp nhân là ngoại lệ của nguyên tắc.  

Quan niệm về tính hiện thực của pháp nhân. Một số nhà luật học lại cho rằng pháp nhân có một thực tại xã hội học giống như cá nhân có một thực tại sinh học. Nhóm có ý chí của riêng mình, phân biệt với ý chí của các thành niên và chính ý chí đó là cơ sở của quan niệm về chủ thể của quan hệ pháp luật: cá nhân có ý chí, vậy cá nhân là chủ thể của quyền và nghĩa vụ; nhóm cũng có ý chí; vậy, nhóm cũng là chủ thể của quyền và nghĩa vụ, với tư cách là một pháp nhân.

Ôn hoà hơn, một vài người cho rằng pháp nhân chỉ là một hiện thực thuần tuý kỹ thuật. Tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật tỏ ra cần thiết trong chừng mực nó tạo điều kiện cho thực thể pháp lý mang tư cách đó thực hiện các giao dịch nhằm đạt tới mục đích của mình. Chính là xuất phát từ tư tưởng chủ đạo đó mà người làm luật thừa nhận tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật cho cá nhân. Bởi vậy, một khi các cá nhân kết nhóm để theo đuổi một mục đích nhất định, thì nhóm tự nhiên phải có tư cách pháp nhân, ít nhất trong điều kiện mục tiêu mà nhóm theo đuổi là chính đáng. Song, việc thừa nhận tư cách pháp nhân cho một nhóm chỉ được thực hiện một khi nhóm tỏ ra là một tập thể có tổ chức chứ không chỉ là một tập hợp đơn giản của các cá nhân. Sự tổ chức chặt chẽ của pháp nhân khiến cho hoạt động của nó, thông qua vai trò của các cơ quan của pháp nhân, mang dáng dấp của hoạt động của một thực thể sống có khả năng nhận thức, tự điều khiển, giống như hoạt động của một cá nhân có đầu đủ năng lực hành vi.   

Quan niệm của luật thực định Việt Nam. Pháp nhân trong luật Việt Nam không phải là một hư cấu cũng không là một hiện thực. Trước hết, pháp nhân có một khối tài sản riêng, độc lập với các khối tài sản riêng của các thành viên; sở hữu của pháp nhân không phải là một hình thức đặc biệt của sở hữu chung[23][23]. BLDS có đề cập đến hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thành từ việc góp vốn của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau để sản xuất, kinh doanh, thu lợi nhuận, và coi đó như một loại sở hữu chung (Ðiều 228). Nhưng có thể tin rằng sở hữu hỗn hợp chỉ là sở hữu chung, trong trường hợp những người góp vốn không thành lập một pháp nhân đứng đầu khối tài sản liên quan: nếu một pháp nhân (ví dụ, một công ty trách nhiệm hữu hạn) được thành lập, thì tài sản gọi là thuộc sở hữu hỗn hợp, là tài sản riêng của pháp nhân chứ không phải là tài sản chung của các thành viên công ty.        

Song, pháp nhân không thể tự động sinh ra từ việc kết nhóm của những người có cùng mục đích, cùng lợi ích: để có tư cách pháp nhân được luật thừa nhận, tổ chức phải được Nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập (BLDS Ðiều 96 khoản 2); nếu tổ chức phải đăng ký hoạt động, thì chỉ được hưởng tư cách pháp nhân từ ngày hoàn thành thủ tục đăng ký (cùng điều luật). Một khi có tư cách pháp nhân, tổ chức của các cá nhân là một định chế pháp lý, là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội đặc thù ràng buộc các thành viên của pháp nhân, đồng thời là tổng hoà các mối quan hệ xã hội ràng buộc pháp nhân với các chủ thể khác của quan hệ xã hội.             

Mục III. Phân loại pháp nhân
 
Pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp. Tạm gọi là pháp nhân công pháp trong luật Việt Nam, các tổ chức nắm giữ quyền lực công cộng và thực hiện một trong các chức năng của Nhà nước hoặc đảm nhận một vai trò trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Ðảng cộng sản, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị, là một ví dụ về pháp nhân công pháp. Trong danh sách pháp nhân công pháp được ghi nhận trong luật viết hiện hành không có Nhà nước; song tư cách pháp nhân của Nhà nước được thừa nhận trong nhiều chế định, đặc biệt là trong pháp luật về tài sản và pháp luật thừa kế: Nhà nước là người thực hiện quyền sở hữu toàn dân về tài sản, là người tiếp nhận các di sản không người hưởng.

Nhà nước có các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang. Các cơ quan Nhà nước được phân loại thành cơ quan Nhà nước trung ương và cơ quan Nhà nước của các địa phương. Các đơn vị hành chính thành lập theo lãnh thổ (tỉnh, thành phố, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn) không phải là pháp nhân[24][24], mà chính các cơ quan Nhà nước được thành lập trong khuôn khổ tổ chức bộ máy chính quyền địa phương là các pháp nhân. Bên cạnh Nhà nước có các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: mặt trận tổ quốc, tổng liên đoàn lao động Việt Nam,...

Các pháp nhân công pháp quản lý tài sản của mình bằng các công cụ của hệ thống kế toán công. Pháp nhân công pháp có thể hình thành từ sự kết nhóm của các cá nhân (nói chung, các chủ thể của quan hệ pháp luật), như Ðảng cộng sản, mặt trận tổ quốc, tổng liên đoàn lao động,..., nhưng cũng có thể do ý chí của Nhà nước, như các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan dịch vụ công - trường học, bệnh viện... 

Pháp nhân tư pháp không phải là pháp nhân công pháp. Tổ chức kinh tế là ví dụ điển hình về pháp nhân tư pháp. Tổ chức kinh tế có thể là doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,... Có một số tổ chức kinh tế, do Nhà nước thành lập, mang tính chất của pháp nhân hỗn hợp, vừa công pháp vừa tư pháp, như các doanh nghiệp Nhà nước độc quyền trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân (bưu chính viễn thông, hàng không dân dụng, năng lượng,...)[25][25]. Các hội tự nguyện của những người có cùng nghề nghiệp, cùng sở thích, cùng lợi ích cá nhân chung (như hội những người nuôi tôm, hội câu cá, hội làm vườn,...) cũng là các pháp nhân tư pháp. Các pháp nhân tư pháp hoạt động sản xuất, kinh doanh và pháp nhân hỗn hợp áp dụng chế độ kế toán doanh nghiệp.
Trong luật Việt Nam hiện hành doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực mà Nhà nước không nắm độc quyền cũng mang các đặc điểm cơ bản của pháp nhân tư pháp. Tuy nhiên, các cán bộ điều hành chủ chốt của các doanh nghiệp này lại được hưởng quy chế đặc biệt như công chức biệt phái sang khu vực kinh tế.   

Quỹ xã hội, quỹ từ thiện
. Khác với pháp nhân được thành lập từ sự kết nhóm của các chủ thể của quan hệ pháp luật hoặc do ý chí của Nhà nước, quỹ xã hội, quỹ từ thiện là một pháp nhân hình thành từ việc trích các tài sản, vốn thuộc một hình thức sở hữu nào đó, để tạo thành một khối tài sản phục vụ cho các hoạt động xã hội hoặc từ thiện. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện không phải là một nhóm người mà là một tập hợp tài sản và chính từ sự cần thiết của việc đặt các tài sản thuộc tập hợp đó dưới một chế độ quản lý chặt chẽ để việc khai thác quỹ đó thực sự có hiệu quả mà luật thừa nhận tư cách pháp nhân của tổ chức con người quản lý quỹ đó.    

Pháp nhân có thu lợi nhuận và pháp nhân không thu lợi nhuận.  Thu lợi nhuận có thể được hiểu như là hoạt động đầu tư tài sản để tìm kiếm chênh lệch giá trị giữa đầu vào và đầu ra. Các pháp nhân công pháp và các quỹ xã hội, quỹ từ thiện là các pháp nhân không thu lợi nhuận. Pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp có thể nhắm đến mục đích thu lợi nhuận hoặc các mục đích khác. Một sồ pháp nhân không thu lợi nhuận, trong khung cảnh của luật thực định, có thể tìm kiếm lợi ích vật chất thông qua việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bằng tài sản của mình.  

Mục IV. Chế độ pháp lý của pháp nhân
 
A. Sự thành lập pháp nhân

Pháp nhân có thể được thành lập trong khuôn khổ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện bộ máy Nhà nước hoặc theo ý chí của các chủ thể của quyền và nghĩa vụ được luật thừa nhận.

Thành lập pháp nhân trong khuôn khổ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và Ðảng cộng sản là những pháp nhân trung tâm trong nhóm các pháp nhân loại này. Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa khá đa dạng: mặt trận tổ quốc, tổng liên đoàn lao động, đoàn thanh niên cộng sản, hội liên hiệp phụ nữ, hội liên hiệp thanh niên, hội cựu chiến binh, các tổ chức thành viên khác của mặt trân tổ quốc,... Trong hầu hết trường hợp, các tổ chức này hình thành như là kết quả sự vận động mang tính quy luật của phong trào cách mạng.

Ở góc độ pháp lý, tư cách pháp nhân của các tổ chức này được thừa nhận một cách đương nhiên trong trường hợp tổ chức đã ra đời trước khi có Nhà nước XHCN và sự hiện hữu của tổ chức trong hệ thống chính trị được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Ví dụ điển hình là việc thừa nhận tư cách pháp nhân của Đảng cộng sản, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ quốc, Tổng công đoàn… Nếu tổ chức được thành lập sau khi có Nhà nước XHCN, thì thông thường, tư cách pháp nhân của tổ chức được thừa nhận trong văn bản của cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập tổ chức đó. Ví dụ điển hình là việc thừa nhận tư cách pháp nhân của Hội cựu chiến binh. 

Thành lập pháp nhân trong khuôn khổ xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Các cơ quan Nhà nước được thành lập theo trình tự, thủ tục do pháp luật (chủ yếu là luật Nhà nước) quy định. Một khi thủ tục thành lập hoàn tất, tư cách pháp nhân của cơ quan Nhà nước cũng phát sinh. Chính luật tạo ra các pháp nhân loại này; còn cơ quan ra quyết định thành lập chỉ là một trong những người thực hiện các thủ tục cần thiết cho sự ra đời của pháp nhân. Thậm chí có trường hợp pháp nhân được thành lập do hiệu lực trực tiếp của luật chứ không phải của một văn bản áp dụng pháp luật. Ví dụ điển hình là việc thành lập các cơ quan Hội đồng nhân dân, UBND các cấp.

Cơ quan Nhà nước được phân loại thành cơ quan quyền lực, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát và cơ quan quản lý. Trong các cơ quan quản lý còn có cơ quan quản lý thuần tuý (còn gọi là cơ quan hành chính) và cơ quan sự nghiệp (tức là cơ quan hoạt động có thu).         

Thành lập pháp nhân theo ý chí của chủ thể của quyền và nghĩa vụ được luật thừa nhận. Các pháp nhân loại này có thể mang tính chất của pháp nhân tư pháp hoặc pháp nhân hỗn hợp hoặc quỹ xã hội, quỹ từ thiện. Các pháp nhân này có thể sinh ra trên cơ sở hợp đồng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật (như trường hợp công ty nhiều thành viên) hoặc do hành vi pháp lý đơn phương (như trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, quỹ xã hội do một người lập). Việc thành lập pháp nhân loại này phải được sự cho phép hoặc công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và, trong hầu hết các trường hợp, pháp nhân phải đăng ký hoạt động mới được hưởng tư cách đó trước người thứ ba. Doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cũng phải đăng ký  mới có tư cách pháp nhân.    

Riêng về quỹ xã hội, quỹ từ thiện do một cá nhân thành lập. Sẽ không có vấn đề gì đặc biệt nếu quỹ được thành lập lúc cá nhân còn sống và đã hoàn tất các thủ tục cần thiết để được hưởng tư cách pháp nhân. Nhưng, nếu cá nhân thành lập quỹ bằng di chúc, thì sao ? Theo BLDS Ðiều 638 khoản 2, “Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện lập bằng di chúc chỉ có thể tồn tại sau khi mở thừa kế, rõ hơn là sau khi hoàn tất các thủ tục xin phép thành lập....

B. Hoạt động của pháp nhân

1. Các cơ quan của pháp nhân

Pháp nhân, như đã biết, không phải là con người cụ thể. Ðể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với người thứ ba, pháp nhân được tổ chức thành các cơ quan tại đó, các cá nhân được bố trí ở các cương vị khác nhau và xử sự nhân danh pháp nhân.

a. Pháp nhân công pháp 

Nhà nước, các cơ quan Nhà nước và đơn vị vũ trang. Nhà nước được tổ chức thành các cơ quan. Tổ chức Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa không dựa vào học thuyết phân quyền. Tư tưởng chủ đạo trong việc tổ chức Nhà nước là: một mặt, toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; mặt khác, giữa các cơ quan Nhà nước có sự phân công để thực hiện các chức năng của Nhà nước.    

 Cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn, cơ quan kiểm sát và cơ quan xét xử, cũng như đơn vị vũ trang được tổ chức và điều hành theo chế độ thủ trưởng: người đứng đầu cơ quan là người duy nhất được thay mặt cơ quan để xác lập và thực hiện các giao dịch với người thứ ba.

Cơ quan quyền lực và quản lý Nhà nước có thẩm quyền chung được điều hành theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Trong quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật, các cơ quan này được đại diện bởi người đứng đầu gọi là Chủ tịch. Riêng Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch nước là cơ quan đặc biệt: bản thân cơ quan Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ  và cá nhân Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ hoàn toàn đồng nhất.    

Tổ chức trong hệ thống chính trị. Các tổ chức trong hệ thống chính trị có các cơ quan được ghi nhận trong điều lệ hoạt động của mình. Đảng cộng sản có Bộ chính trị, Ban Bí thư, Ban chấp hành trung ương,…; Mặt trận Tổ quốc có Uỷ ban trung ương;…     

b. Pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp

Nguyên tắc phân công giữa các cơ quan. Để ngăn ngừa sự lạm quyền của một hoặc một nhóm cá nhân trong việc điều hành pháp nhân cũng như trong các hoạt động đối ngoại của pháp nhân, việc phân chia pháp nhân thành nhiều cơ quan tỏ ra cần thiết. Việc tổ chức các cơ quan của các pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp được thực hiện theo đúng điều lệ mà pháp nhân có quyền (và có nghĩa vụ) xây dựng. Ðiều lệ của pháp nhân phải có hình thức và nội dung phù hợp với các quy định của pháp luật áp dụng đối với từng loại pháp nhân. Ðiều lệ của pháp nhân, một khi được xây dựng và thông qua đúng luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với tất cả thành viên của pháp nhân. Không chấp nhận điều lệ, thành viên chỉ có mỗi cách xử sự đúng luật là xin ra khỏi pháp nhân. Điều lệ hợp pháp của pháp nhân cũng có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. 

Một cách tổng quát, pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp có hai nhóm cơ quan chính: cơ quan quyết nghị và cơ quan chấp hành. Một số pháp nhân có quy mô tổ chức lớn còn có thêm cơ quan kiểm soát.
- Cơ quan quyết nghị của pháp nhân: là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của pháp nhân và có cả khả năng định đoạt số phận pháp lý của pháp nhân (sáp nhập, giải thể,..). Cơ quan này được tổ chức dưới hình thức đại hội thành viên. 
- Cơ quan chấp hành của pháp nhân: là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định của cơ quan quyết nghị, đồng thời đảm nhận việc quản lý đối với các công việc hàng ngày của pháp nhân, kể cả việc đại diện cho pháp nhân trong quan hệ với người thứ ba. Cơ quan chấp hành có thể mang những tên gọi khác nhau: ban giám đốc, hội đồng quản trị, ban quản lý,... Bằng hoạt động của mình, cơ quan chấp hành ràng buộc trách nhiệm của pháp nhân đối với những giao dịch mà cơ quan chấp hành xác lập và thực hiện nhân danh pháp nhân và trong giới hạn quyền và nhiệm vụ được giao.   
- Cơ quan kiểm soát: là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của các hoạt động của pháp nhân. Thông qua hoạt động kiểm soát, cơ quan này đánh giá chất lượng pháp lý của sự vận hành của pháp nhân cũng như của các giao dịch mà pháp nhân xác lập với người thứ ba. 

2. Năng lực của pháp nhân

a. Năng lực pháp luật của pháp nhân

Tính đặc biệt của pháp nhân. Pháp nhân có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát sinh. Khác với năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp nhân, thậm chí với từng pháp nhân. Chắc chắn, pháp nhân không thể có các quyền và nghĩa vụ đặc thù của cá nhân, như quyền kết hôn, quyền nhận cha, mẹ cho con, quyền nuôi con nuôi...  Mỗi pháp nhân có những mục đích xác định để theo đuổi và, do đó, có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới hạn bởi chính các mục đích đó. Ví dụ: Sở tư pháp không có năng lực giao kết hợp đồng mua bán nông sản hàng hoá, do không có tư cách thương nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn không có năng lực phát hành cổ phiếu;...

Mục đích của các pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp được xác định trong điều lệ của pháp nhân. Bởi vậy, khi giao dịch với pháp nhân loại này, người thứ ba, muốn tránh khả năng giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do không phù hợp với mục đích của pháp nhân đối tác, nên tham khảo điều lệ của pháp nhân trước khi quyết định nên hay không nên tiến hành giao kết. Cần lưu ý rằng người thứ ba luôn ở trong tình trạng buộc phải biết nội dung điều lệ của pháp nhân tư pháp, bởi trong mọi trường hợp, điều lệ này luôn được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nghĩa là được công bố cho tất cả mọi người.

Thụ hưởng tặng cho hoặc di tặng. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, vấn đề liệu pháp nhân có năng lực giao kết hợp đồng tặng cho với tư cách là người được tặng cho hoặc năng lực chấp nhận các di tặng chưa được giải quyết rõ ràng. Theo BLDS Điều 638 khoản 2, cơ quan, tổ chức có thể là người thừa kế theo di chúc, nhưng không chỉ rõ đó là loại cơ quan, tổ chức nào.
Có một quy tắc được chấp nhận trong học thuyết pháp lý theo đó, công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm, trong khi cơ quan Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Với quy tắc này, thì hẳn cơ quan hành chính Nhà nước không có quyền tiếp nhận các tặng cho hoặc di tặng. Thực tiễn, về phần mình, lại thừa nhận cho các cơ quan sự nghiệp (như trường học, viện nghiên cứu, bệnh viện,…) năng lực tiếp nhận các tặng cho và di tặng, nhưng tất nhiên, với điều kiện các tài sản được tặng cho hoặc di tặng phải được khai thác phù hợp với mục đích hoạt động của cơ quan đó.

Việc nhận các tài sản tặng cho hoặc di tặng của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị có vẻ được thực tiễn thừa nhận rộng rãi hơn: Đảng cộng sản, Mặt trận Tổ quốc có quyền tiếp nhận các tài sản do các tổ chức, cá nhân khác tặng hoặc hoặc do cá nhân để lại theo di chúc.         

Các pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp được hưởng các tặng cho và di tặng như những cá nhân.

b. Năng lực hành vi của pháp nhân.

Pháp nhân không có năng lực hành vi thực. Suy cho cùng, khái niệm năng lực hành vi của pháp nhân không thể được xây dựng như một khái niệm ứng dụng được. Pháp nhân, dù được nhân cách hoá, không phải là con người cụ thể và do đó, không thể tự mình xử sự. Ngay cả các cơ quan của pháp nhân cũng chỉ vận hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ cụ thể. Suy cho cùng, pháp nhân luôn phải được đại diện, từ khi được thành lập cho đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay mượn của những con người mà pháp nhân hoá thân vào.     

3. Tài sản của pháp nhân

Pháp nhân công pháp. Trong luật hiện hành, tài sản gọi là thuộc về pháp nhân công pháp thực ra của Nhà nước. Các pháp nhân công pháp chỉ có quyền sử dụng các tài sản được giao cho mình phù hợp với mục đích hoạt động của mình. Pháp nhân công pháp không có tài sản có riêng, do đó, không thể có tài sản nợ riêng: các nghĩa vụ tài sản do pháp nhân công pháp xác lập được Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện.     

Pháp nhân hỗn hợp. Các doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế trọng yếu được Nhà nước giao một số tài sản để khai thác. Các tài sản này thuộc về Nhà nước; còn doanh nghiệp Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước (BKDS Điều 209). Doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế trọng yếu cũng có tài sản nợ riêng; nhưng việc xác định khối tài sản bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp có vẻ không đơn giản trong luật thực định: các doanh nghiệp này thường được các định chế tài chính công hỗ trợ mỗi khi cần vượt qua khó khăn.        

Pháp nhân tư pháp. Pháp nhân tư pháp có khối tài sản riêng, bao gồm các tài sản có riêng và các tài sản nợ riêng. Pháp nhân chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của mình bằng các tài sản có của mình. Quy tắc này, thực ra, chỉ được áp dụng nghiêm ngặt đối với các pháp nhân tư pháp. Tài sản của pháp nhân công pháp và pháp nhân hỗn hợp không thể bị kê biên và bán để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân. Theo BLDS Ðiều 111 khoản 2, cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang chịu trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng kinh phí được cấp từ ngân sách Nhà nước. Còn các pháp nhân hỗn hợp, nếu gặp khó khăn,  thường được Nhà nước hỗ trợ để thực hiện các nghĩa vụ tài sản của mình.     

Trong trường hợp pháp nhân được thành lập từ sự kết nhóm của nhiều chủ thể của quan hệ pháp luật, thì khối tài sản của pháp nhân độc lập với khối tài sản của mỗi thành viên: các chủ nợ của thành viên không có quyền yêu cầu kê biên và bán tài sản của pháp nhân để thực hiện nghĩa vụ riêng của thành viên; ngược lại các chủ nợ của pháp nhân không có quyền yêu cầu kê biên và bán tài sản của thành viên để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân[26][26].

Trong quan hệ giữa pháp nhân và thành viên của pháp nhân, các tài sản của pháp nhân không phải thuộc sở hữu chung của các thành viên: pháp nhân có tài sản của mình; còn thành viên có một phần hùn và chính phần hùn đó là tài sản thuộc quyền sở hữu  của thành viên[27][27].  

Doanh nghiệp Nhà nước không độc quyền. Tính chất pháp lý của các quyền của doanh nghiệp Nhà nước không độc quyền đối với tài sản đầu tư vào doanh nghiệp chưa được xác định rõ trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam. Tài sản đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước vẫn thuộc về Nhà nước, nhưng doanh nghiệp có các quyền sử dụng các tài sản ấy và thậm chí có quyền định đoạt đối với một số tài sản trong quá trình hoạt động của mình. Doanh nghiệp Nhà nước cũng có tài sản nợ riêng như bất kỳ pháp nhân tư pháp nào và các tài sản nợ ấy được bảo đảm thanh toán bằng các tài sản có được đầu tư vào doanh nghiệp cũng như bằng các tài sản mà doanh nghiệp tao ra trong quá trình hoạt động của mình. Các chủ nợ của doanh nghiệp Nhà nước, trên nguyên tắc, có quyền yêu cầu kê biên các tài sản thuộc quyền sử dụng và định đoạt của doanh nghiệp Nhà nước để thu hồi nợ, nhưng không có quyền kê biên các tài sản khác của Nhà nước.   

4. Nhân thân của pháp nhân

Tên của pháp nhân. Pháp nhân phải có tên gọi riêng và phải sử dụng tên gọi của mình trong các giao dịch. Tên gọi của pháp nhân trong luật Việt Nam phải bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động (BLDS Ðiều 97 khoản 1), ví dụ: công ty cổ phần Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu,... Pháp nhân có thể sử dụng tên gọi tắt hoặc tên gọi bằng tiếng nước ngoài trong các hoạt động trao đổi thông tin hoặc trong quan hệ giao tế.

Tên gọi của pháp nhân hoạt động thương mại (tên thương mại) là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tên thương mại cò giá trị tài sản, có thể được chuyển nhượng và được bảo hộ theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, việc lựa chọn tên gọi của pháp nhân thương mại không tự do như việc đặt tên cho một cá nhân.

Tên gọi của pháp nhân công pháp do pháp luật quy định.     

Trụ sở của pháp nhân. Pháp nhân có trụ sở tại nơi đặt cơ quan điều hành của mình (cơ quan chấp hành đối với pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp) (BLDS Ðiều 98), dù có thể toàn bộ hoặc một phần lớn hoạt động của pháp nhân được thực hiện ở nơi khác. Trụ sở của pháp nhân, trong chừng mực nào đó, mang ý nghĩa đối với pháp nhận (và đối với người giao dịch với pháp nhân) như nơi cư trú của cá nhân: nếu pháp nhân là bị đơn trong một vụ tranh chấp liên quan đến động sản, thì  Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trên nguyên tắc, là Toà án nơi có trụ sở của pháp nhân... Pháp nhân có thể chọn nơi khác làm địa chỉ liên lạc (Ðiều 98).

Quốc tịch của pháp nhân. Cũng như cá nhân, pháp nhân có quốc tịch riêng. Tất cả các pháp nhân công pháp được thành lập trong khuôn khổ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị và bộ máy Nhà nước Việt Nam, cũng như pháp nhân hỗn hợp,  đều là pháp nhân Việt Nam. Các pháp nhân tư pháp có trụ sở tại Việt Nam, trên nguyên tắc cũng là pháp nhân Việt Nam. 

Danh dự, uy tín của pháp nhân. Là một chủ thể của quan hệ xã hội, pháp nhân có danh dự, uy tín của riêng mình, độc lập với uy tín, danh dự của cá nhân thành viên[28][28]. Uy tín, danh dự của pháp nhân hình thành trong quá trình hoạt động của pháp nhân nhằm vươn tới mục đích của mình và được củng cố bằng hiệu quả hoạt động của pháp nhân. 

5. Quyền kiện cáo

Bảo vệ lợi ích riêng. Pháp nhân có quyền kiện để yêu cầu bảo vệ lợi ích của riêng mình, trong lĩnh vực tài sản (đòi nợ hội phí, đòi lại tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại vật chất,…) hoặc phi tài sản (đòi bồi thường thiệt hại về tinh thần). Quyền kiện cáo để yêu cầu bảo vệ lợi ích riêng được thừa nhận cho tất cả các pháp nhân, không phân biệt pháp nhân công pháp hay pháp nhân tư pháp.     

Bảo vệ lợi ích chung. Pháp nhân cũng có thể kiện cáo để yêu cầu bảo vệ lợi ích chung. Thông thường, quyền kiện cáo đòi bảo vệ lợi ích chung được luật chính thức thừa nhận cho một số pháp nhân là tổ chức xã hội hoặc một cơ quan Nhà nước đảm trách một hoặc nhiều mặt công tác xã hội. Ví dụ, Uỷ ban chăm sóc và bảo vệ trẻ em co thể kiện yêu cầu cấm bán thuốc lá cho trẻ em. Có trường hợp lợi ích chung được viện dẫn trong quá trình tìm kiếm biện pháp bảo vệ lợi ích riêng của một người nào đó; ví dụ, Hội liên hiệp phụ nữ kiện yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật do người đàn ông đã có vợ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 15), qua đó, bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng. 

C - Chấm dứt pháp nhân

Các trường hợp chấm dứt pháp nhân. Theo BLDS Điều 108 khoản 1, pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

- Hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân theo quy định tại các Ðiều từ 104 đến 106  BLDS;
- Giải thể pháp nhân theo quy định tại Ðiều 107 BLDS, tức là: theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (ví dụ: UBND cấp tỉnh ra quyết định giải thể một Sở trực thuộc); theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền của pháp nhân đã được điều lệ của pháp nhân quy định (ví dụ: đại hội đồng cổ đông quyết nghị giải thể công ty cổ phần); do hết thời hạn hoạt động được ghi trong điều lệ hoặc trong quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc thành lập pháp nhân (ví dụ: pháp nhân có thời hạn hoạt động là 20 năm và thời hạn này đã hết).   
- Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Ta có hai lưu ý:

- Lưu ý thứ nhất: dù luật không quy định, pháp nhân cũng chấm dứt trong trường hợp mục đích của pháp nhân đã đạt được, ngay nếu như thời hạn hoạt động của pháp nhân chưa hết; ví dụ: công ty được thành lập nhằm mục đích khai thác khoáng sản tại một khu vực có ranh giới được xác định rõ và nguồn khoáng sản đã cạn kiệt.
- Lưu ý thứ hai: pháp nhân chỉ chấm dứt kể từ ngày kết thúc việc thanh toán tài sản theo quy định của pháp luật và (hoặc) theo điều lệ (nếu có). 

Thanh toán tài sản của pháp nhân. Pháp nhân không có người thừa kế như cá nhân. Khi pháp nhân chấm dứt, tài sản của pháp nhân được chuyển giao cho các chủ thể khác của quan hệ pháp luật tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại pháp nhân.
- Các tài sản còn lại của pháp nhân công pháp và pháp nhân hỗn hợp được giao cho Nhà nước. Cần lưu ý rằng giải pháp này được áp dụng cả đối với các pháp nhân hình thành từ việc kết nhóm các cá nhân để xây dựng tổ chức thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: một khi tổ chức hoàn thành vai trò lịch sử của mình và chấm dứt, tài sản còn lại của tổ chức không được chia cho các thành viên, mà trở thành tài sản thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý.  
- Các tài sản còn lại của tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được giao lại cho người đầu tư vốn vào tổ chức kinh tế. Tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước thu hồi; tài sản của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được phân chia giữa các thành viên theo điều lệ hoặc, nếu điều lệ không có quy định, theo tỷ lệ vốn góp của các thành viên.
- Các tài sản còn lại của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp không được phân chia cho các thành viên mà phải được giải quyết theo quy định của pháp luật (BLDS Ðiều 114 khoản 3). Các tài sản còn lại của quỹ xã hội, quỹ từ thiện cũng được giải quyết theo quy định của pháp luật chứ không được giao lại cho các thành viên sáng lập hoặc cho người thừa kế của họ (Ðiều 115 khoản 4).        

Chương III. Hộ Gia đình. Tổ hợp tác
 
Nhóm không có tư cách pháp nhân - Nhóm không có tư cách pháp nhân trong luật phương Tây không phải là một thực thể pháp lý và không có khả năng đảm nhận tư cách chủ thể của quyền và nghĩa vụ. Luật Việt Nam cũng chấp nhận giải pháp này, nhưng coi đó là giải pháp nguyên tắc. Một cách ngoại lệ, và phù hợp với đặc điểm và trình độ của nền kinh tế Việt Nam, luật Việt Nam thừa nhận có hai loại chủ thể của quan hệ pháp luật không có tư cách pháp nhân mà cũng không phải là cá nhân: hộ gia đình và tổ hợp tác.


Mục I. Hộ gia đình
 
Khái niệm. Theo BLDS Ðiều 116 khoản 1, hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư  nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó. 

Sự thành lập hộ gia đình. Hộ gia đình luôn bắt đầu bằng hai người kết hợp với nhau do quan hệ hôn nhân và khối tài sản chung của hộ gia đình luôn có các yếu tố thứ nhất là các tài sản chung của vợ và chồng. Các thành viên khác của hộ gia đình xuất xứ từ ba nguồn: 1 - Tự nhiên, tức là do được cha và mẹ - hai thành viên đầu tiên - sinh ra, sau đó tham gia vào hoạt động kinh tế chung của hộ, khi có đủ khả năng lao động; trong các hộ gia đình tồn tại lâu năm còn có các thành viên có xuất xứ tự nhiên do được một thành viên không phải là người sáng lập ra hộ gia đình sinh ra, sau đó tham gia vào hoạt động kinh tế chung của hộ; 2 - Nuôi con nuôi, tức là được thành viên của hộ nhận làm con nuôi, sau đó tham gia vào hoạt động kinh tế của hộ; 3 - Hôn nhân, một người ngoài hộ kết hôn với một thành viên trong hộ và sau đó, cùng với cả hộ thực hiện hoạt động kinh tế chung. Ta thấy rằng thành viên của hộ gia đình trước hết phải là thành viên của gia đình; nhưng không phải thành viên nào của gia đình cũng là thành viên của hộ gia đình: chỉ gọi là thành viên của hộ gia đình, những thành viên nào của gia đình tham gia vào hoạt động kinh tế chung của hộ. Hộ gia đình đương nhiên có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật mà không cần xúc tiến một thủ tục pháp lý nào.

Chế độ pháp lý của hộ gia đình. Hộ gia đình được đại diện bởi chủ hộ. Thông thường chủ hộ gia đình là người đứng đầu gia đình theo tập quán - cha, mẹ, ông, bà. Có trường hợp cha, mẹ, ông, bà đều mất hoặc không còn tham gia vào hoạt động kinh tế chung của hộ, thì chủ hộ có thể là con trưởng hoặc con thứ đã thành niên, tuỳ theo kết quả dàn xếp trong nội bộ gia đình. Nếu cha, mẹ, ông, bà không còn đứng đầu hộ gia đình mà giữa những người có liên quan không có được sự dàn xếp cần thiết, thì hộ gia đình sẽ được chia nhỏ thành các hộ gia đình mới.

Chủ hộ gia đình được giao các quyền hạn rộng rãi trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dưới danh nghĩa của hộ, kể cả các giao dịch có tác dụng định đoạt tài sản. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ trong quan hệ dân sự (BLDS Ðiều 117 khoản 1).

Hộ gia đình có năng lực pháp luật phù hợp với mục đích tồn tại của nó: để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, ... Nói chung, theo tập quán, hộ gia đình có năng lực có quyền và nghĩa vụ gần giống như cá nhân, trừ các quyền và nghĩa vụ gắn liền với con người - quyền kết hôn, quyền nhận cha, mẹ cho con, quyền lập di chúc,... Hộ gia đình có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án.     

Hộ gia đình có một khối tài sản, gọi là khối tài sản chung của hộ. Thông thường, khối tài sản có của hộ gồm các tài sản chuyên dùng để hoạt động kinh tế chung. Song, khác với khối tài sản của pháp nhân hoặc của cá nhân, các tài sản nợ của hộ gia đình được bảo đảm không chỉ bằng các tài sản có chung của hộ mà còn cả bằng các tài sản có thuộc khối tài sản riêng của thành viên của hộ (Ðiều 119 khoản 2). Các chủ nợ riêng của thành viên không có quyền yêu cầu kê biên tài sản chung của hộ; nhưng nếu mỗi thành viên đều có nghĩa vụ đối với một chủ nợ, thì chủ nợ này lại có quyền đó. 

Mục II. Tổ hợp tác
 
Khái niệm. Tổ hợp tác là sự kết nhóm của từ 3 cá nhân trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi ích và cùng chịu trách nhiệm (BLDS Ðiều 120 khoản 1 và Ðiều 121). Trên thực tế, tổ hợp tác hình thành từ sự thoả thuận giữa những người có cùng nghề nghiệp nông nghiệp hoặc thủ công nghiệp, nhằm tập họp các nỗ lực của cá nhân, tạo thành nỗ lực chung để thực hiện các hoạt động nghề nghiệp đó với hiệu quả cao hơn so với trường hợp cá nhân hoạt động riêng lẻ. Có thể coi tổ hợp tác như là một nhân vật pháp lý nằm giữa pháp nhân và nhóm thực tế trong lĩnh vực kinh tế.

Thành lập tổ hợp tác. Hợp đồng thành lập tổ hợp tác phải lập thành văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn (Ðiều 120 khoản 1). Luật không nói rõ tại UBND địa phương nào mà tổ hợp tác phải yêu cầu chứng thực hợp đồng. Có lẽ, thẩm quyền chứng thực thuộc về UBND địa phương nơi cư trú của tổ trưởng, ngay nếu như  tổ trưởng cư trú ở một nơi, trong khi tổ tiến hành các hoạt động hoặc phần lớn hoạt động ở một nơi khác: nơi cư trú của tổ trưởng và của các tổ viên phải được ghi nhận trong hợp đồng thành lập tổ hợp tác, như là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng; còn nơi hoạt động của tổ hợp tác không nhất thiết được ghi nhận trong hợp đồng đó. Ngoài nơi cư trú của các thành viên, hợp đồng thành lập tổ hợp tác còn phải có các chi tiết về mục đích, thời hạn của hợp đồng hợp tác; họ tên của các thành viên; mức đóng góp tài sản (nếu có); phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các tổ viên; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ trưởng, của các tổ viên; điều kiện nhận tổ viên mới và ra khỏi tổ hợp tác; điều kiện chấm dứt tổ hợp tác và các thoả thuận khác (Ðiều 120 khoản 2).  Số lượng tổ viên tối thiểu mà tổ hợp tác phải có là 3 người. Tổ viên thường là những người có cùng nghề nghiệp, nhưng không nhất thiết có quan hệ thân thuộc.

Chế độ pháp lý của tổ hợp tác.  Tổ hợp tác được đại diện bởi tổ trưởng, do các tổ viên cử ra (Ðiều 122). Thể thức cử tổ trưởng hẳn phải được quy định trong hợp đồng thành lập tổ. Tổ trưởng có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ (cùng điều luật). Tổ trưởng tổ hợp tác không có những quyền hạn rộng rãi trong việc đại diện như chủ hộ gia đình: các giao dịch do tổ trưởng xác lập nhân danh tổ phải đượüc sự đồng ý của đa số tổ viên (cùng điều luật), nhắc lại rằng “đa số tổ viên” chứ không phải “đa số tổ viên dự họp”; riêng việc định đoạt các tài sản là tư liệu sản xuất của tổ phải được sự đồng ý của tất cả tổ viên (Ðiều 123 khoản 2). 

Tổ hợp tác có năng lực pháp luật giới hạn trong phạm vi mục đích hoạt động của tổ, như năng lực pháp luật giới hạn của pháp nhân.Tổ hợp tác có một khối tài sản. Cũng như tài sản của hộ gia đình, tài sản của tổ hợp tác là tài sản chuyên dùng. Và cũng như khối tài sản nợ của hộ gia đình, tài sản nợ của tổ hợp tác được bảo đảm không chỉ bằng tài sản có của tổ hợp tác mà còn cả bằng tài sản có của các tổ viên (Ðiều 126 khoản 2).

Chấm dứt tổ hợp tác và thanh toán tài sản - Tổ hợp tác chấm dứt trong những trường hợp được dự liệu tại BLDS Ðiều 129 khoản 1, bao gồm: a) Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác; b) Mục đích của việc hợp tác đã đạt được; c) Các tổ viên thoả thuận chấm dứt tổ hợp tác. Việc chấm dứt tổ hợp tác phải được báo cáo với UBND xã, phường, thị trấn nơi đã chứng thực hợp đồng hợp tác (cùng điều luật). Tổ hợp tác cũng có thể chấm dứt theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong những trường hợp do pháp luật quy định (Ðiều 129 khoản 2).

Tài sản còn lại của tổ hợp tác, sau khi thanh toán các khoản nợ, được phân chia cho các tổ viên theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp của mỗi người, trừ trường hợp có thoả thuận khác (Ðiều 129 khoản 3).       









[1][1] Nhưng khác với quyền sở hữu, quyền đối với họ và tên không thể chuyển nhượng và không mất đi do thời hiệu.
[2][2] Trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở Pháp, họ trong trường hợp này sẽ được lựa chọn giữa các từ được dùng để đặt tên. 
[3][3] Ở phương Tây, tên dùng để xưng hô thân mật; còn họ dùng để xưng hô theo nghi thức, theo phép lịch sự hoặc trong các quan hệ xã giao.
Có kiến cho rằng người Việt Nam dùng tên cả trong xưng hô trang trọng, bởi vì tên Việt Nam rất đa dạng và có tác dụng phân biệt được cá nhân, trong khi họ lại không được đa dạng lắm. Ý kiến này không tỏ ra thuyết phục, bởi Trung Quốc cũng có nhiều tên và không có nhiều họ như ở Việt Nam, nhưng người Trung Quốc lại có thói quen dùng họ để xưng hô trang trọng như người phưong Tây.  
 Trong tập quán giao tiếp hiện đại ở Việt Nam, việc xưng hô trang trọng đang dần dần được đặc trưng bằng việc xướng cả họ và tên.  
[4][4] Trước những yêu cầu đặt tên như thế, thì thường viên chức hộ tịch sẽ thuyết phục người đặt tên thay đổi yêu cầu của mình. Nhưng nếu không thành công, thì ta chưa hình dung được thái độ xử sự mà viên chức hộ tịch có thể lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. 
[5][5] Ví dụ, Hồ Dzếnh.
[6][6] Ví dụ, Phan Văn Din. Trong khá nhiều trường hợp, những tên như thế thường có nguồn gốc từ sai lầm của viên chức hộ tịch trong việc ghi lại một tên mà thực ra rất bình thường: Phan Văn Din có thể đúng ra là Phan Văn Diên, Diện,...  
[7][7] Giải pháp này được thừa nhận tại Điều 52 Nghị đinh số 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch. Thực ra, điều luật nói trên được soạn thảo một cách khá lúng túng. Tiêu đề của điều luật là “thẩm quyền đăng ký việc thay đổi họ, tên…”. Tiêu đề đó cho phép nghĩ rằng các cơ quan được liệt kê trong điều luật chỉ là các cơ quan đăng ký việc thay đổi họ, tên, còn cơ quan cho phép thay đổi họ tên là cơ quan khác. Thế nhưng, cũng chính điều luật này lại nói rõ rằng cơ quan được liệt kê trong điều luật là cơ quan có thẩm quyền cho phép thay đổi họ tên (UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); còn cơ quan đăng ký, theo Điều 53 tiếp sau đó, lại là cơ quan khác (Sở tư pháp).     
[8][8] Trên thực tế, ở cấp tỉnh, chính Sở tư pháp là cơ quan trực tiếp đăng ký hộ tịch; còn UBND là cơ quan quyết định (dưới danh nghĩa cơ quan đăng ký hộ tịch) việc cho hay không cho đăng ký.  
[9][9] Nếu hai người (tất nhiên là khác giới tính) cùng nhận một trẻ bị bỏ rơi làm con nuôi, thì phải xuất trình được giấy chứng nhận đăng ký kết hôn khi lập khai sinh, bởi một người không thể là con nuôi của hai người trừ trường hợp là con nuôi của vợ chồng (Luật hôn nhân và gia đình Điều 68 khoản 3). 
[10][10] Các phân tích chi tiết về việc khai đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ được thực hiện trong khuôn khổ môn Luật gia đình I
[11][11] Song, giải pháp này chỉ áp dụng được cho các ghi chép được thể hiện cả trên chứng thư hộ tịch khác và trên giấy khai sinh, ví dụ, họ tên đương sự, ngày, tháng năm, nơi sinh. Có những ghi chép rất riêng của chứng thư hộ tịch khác, chẳng hạn, ngày kết hôn trên Giấy chứng nhận kết hôn. Trong điều kiện không có các quy định cho phép cải chính, điều chỉnh trực tiếp đối với các chứng thư hộ tịch khác không phải là chứng thư khai sinh, có lẽ phải thừa nhận rằng việc sửa chữa sai sót trong các chứng thư này được thực hiện theo cách thông thường: viên chức hộ tịch viết chồng lên chỗ có sai sót và ký tên, đòng dấu bên cạnh. 
[12][12] Xem lại thủ tục thay đổi họ, tên.
[13][13] Trong luật của Pháp, các ghi nhận trong chứng thư hộ tịch mà được viên chức hộ tịch đích thân và trực tiếp kiểm chứng có tính xác thực và chỉ có thể bị bác bỏ thông qua thủ tục đăng cáo giả mạo (inscription de faux) rất phức tạp. Các ghi nhận khác trong chứng thư có giá trị chứng minh cho đến khi có bằng chứng ngược lại, nghĩa là trách nhiệm chứng minh, trong trường hợp có tranh cãi, thuộc về người nào không thừa nhận tính xác thực của các ghi nhân đó.   
[14][14] Nhưng trong trường hợp chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ, thì không phải khai sinh. Câu chữ của điều luật có thể gây ngộ nhận: “không phải” có nghĩa là “không có nghĩa vụ’ chứ không nhất thiết là “không có quyền”. Vậy, nếu muốn, thì cha, mẹ hoặc người thân thích cũng có thể khai sinh cho trẻ sinh ra mà sống không đến 24 giờ ?  Sẽ tránh được các cuộc tranh cãi, nếu người làm luật nói: “…, thì coi như không tồn tại và không được khai sinh”.       
[15][15] Luật không nói rõ, trong trường hợp việc quản lý tài sản được giao cho người được uỷ quyền, thì liệu người được uỷ quyền thực hiện việc quản lý theo hợp đồng uỷ quyền hay theo khoản 1 Điều 85 BLDS.   
[16][16] Khi đó, có thể coi người quản lý như một người thực hiện công việc mà không có uỷ quyền.
[17][17] Về những vấn đề tế nhị phát sinh trong trường hợp vợ hoặc chồng không kết hôn lại mà chỉ chung sống như vợ chồng với người khác: xem Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt nam, Tập I-Gia đình, nxb Trẻ 2002, số 305 ghi chú 352.
[18][18] Người đủ 18 tuổi là người thành niên (BLDS Điều 20). Có ý kiến cho rằng người phụ nữ chưa đủ 18 tuổi cũng được coi là thành niên, nếu kết hôn. Ý kiến này xuất phát từ nhận xét theo đó, Luật hôn nhân và gia đình, khi quy định tuổi kết hôn tối thiểu, đã không đòi hỏi người phụ nữ phải đủ 18 tuổi. Thực ra, câu chữ của điều luật liên quan đến tuổi kết hôn tối thiểu trong Luật hôn nhân và gia đình không phản ánh trung thực ý chí của người làm luật. Trong khung cảnh của chính sách dân số, người làm luật không bao giờ khuyến khích viêc kết hôn của người chưa thành niên. Chẳng qua, khi soạn thảo điều luật về tuổi kết hôn, người làm luật đã lấy lại câu chữ của các Luật hôn nhân và gia đình trước đây.         
[19][19] Điều kiện cần thiết có lẽ là điều kiện về nhân cách và về tài sản.  
[20][20] Thực ra, Điều 46 khoản 2 chỉ nhắc đến sự đồng ý của cha mẹ. Ta có được giải pháp nêu trên nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
[21][21] Thực ra, một cách hợp lý, việc một người thành niên có hành vi phá tán tài sản một cách thường xuyên đủ để khiến người này được đặt trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi. Việc người làm luât áp đặt điều kiện “nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác” làm cho diện những người phá tán tài sản có thể bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi bị thu hẹp lại. Rõ ràng sự thu hẹp đó không thể được coi là phù hợp với ý chí của người làm luật. Có lẽ cần áp dụng tương tự pháp luật cho các trường hợp phá tán tài sản do nghiện những thứ khác (ví dụ, nghiện cờ bạc), thậm chí không nghiện gì cả. 
[22][22] Vậy nghĩa là chính người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xuất hiện trước người thứ ba và tự mình giao dịch, với điều kiện chứng minh được rằng mình được sự cho phép của người đại diện. Vấn đề là, không như việc giám hộ, việc đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi không hề được đăng ký ở bất kỳ nơi nào. Người thứ ba phải làm gì để phát hiện được một người bị hạn chế năng lực hành vi ?   
[23][23] Thực ra, có một thời, người làm luật Việt Nam đã lẫn lộn sở hữu của pháp nhân với sở hữu chung, nhưng sự lẫn lộn này đã chấm dứt: Xem Tài sản, nxb Trẻ, 1999, số 30.   
[24][24] Trong luật của Pháp, các đơn vị hành chính cơ sở (communes) là những pháp nhân. Tư cách pháp nhân của cơ quan Nhà nước được thừa nhận cho hầu hết các đơn vị sự nghiệp (như trường học, bệnh viện,…) nhưng chỉ được thừa nhận cho một số cơ quan quản lý. Riêng các Bộ không phải là các pháp nhân.    
[25][25] Theo xu thế hội nhâp vào đời sống kinh tế khu vực và toàn cầu, Nhà nước dần dần từ bỏ vị thế độc quyền cả trong các lĩnh vực kinh tế then chốt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nuớc trong các lĩnh vực này vẫn tiếp tục mang tính chất tổ chức công trong khu vực kinh tế.
[26][26] Đó là giải pháp nguyên tắc. Một cách ngoại lệ, các chủ nợ của một thành viên công ty hợp danh có quyền yêu cầu kê biên và bán tài sản của thành viên để thu hồi nợ.      
[27][27] Trong luật của Pháp, phần hùn của thành viên là căn cứ xác lập môt quyền tương tự như quyền chủ nợ đối với pháp nhân, một thứ quyền chủ nợ đặc biệt, cho phép thành viên được hưởng một phần lợi nhuận của pháp nhân và nhận một phần tài sản khi thanh lý pháp nhân. 
[28][28] Bởi vậy, trên nguyên tắc, việc xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân người đại diện của pháp nhân không thể coi là việc xúc phạm danh dự, uy tín của pháp nhân. 
LIKE and Share this article: :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

 

Tổng số lượt xem trang

Blogger news

Blogroll

About