Hai nhóm căn cứ. Theo BLDS Ðiều 286, nghĩa vụ dân sự
phát sinh từ những căn cứ sau đây: 1 - Hợp đồng dân sự; 2 - Hành vi dân sự đơn
phương; 3 - Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản mà không có căn cứ
pháp luật; 4 - Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; 5 - Thực hiện công việc
không có ủy quyền; 6 - Những căn cứ khác do pháp luật quy định. Suy cho cùng, tất
cả các nghĩa vụ đều phát sinh từ luật. Thế nhưng, có thể nhận thấy rằng luật có
xu hướng thừa nhận sự phát sinh của nghĩa vụ từ hai nguồn chính: 1 - Các giao
dịch, tức là sự bày tỏ ý chí của chủ thể của quan hệ pháp luật nhằm tạo ra các
hệ quả pháp lý; 2 - Các sự kiện pháp lý, tức là các sự việc dẫn đến sự ràng buộc chủ thể của quan hệ pháp
luật vào một nghĩa vụ, độc lập với ý chí của chủ thể đó.
Chương
I
|
GIAO
DỊCH DÂN SỰ
Nhận định sơ bộ. Luật
hiện hành ghi nhận hai loại giao dịch dân sự: hành vi dân sự đơn phương và hợp
đồng (BLDS 130). Không phải hợp đồng nào cũng làm phát sinh nghĩa vụ: có những
hợp đồng có tác dụng thay đổi, chấm dứt hoặc chuyển giao nghĩa vụ đã có sẵn. Ví
dụ: thỏa thuận chấm dứt hợp đồng là một hợp đồng không làm phát sinh một nghĩa
vụ nào; chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng có tác dụng chuyển quyền yêu
cầu từ một chủ thể này sang một chủ thể khác chứ không tạo ra quyền yêu cầu
mới. Trong luật la tinh, “hợp đồng” là sự thỏa thuận để làm phát sinh nghĩa vụ;
còn sự thỏa thuận theo nghĩa tổng quát nhất, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
hoặc chuyển giao nghĩa vụ, gọi là “giao ước”. Trong các phân tích sau đây, “hợp
đồng” được hiểu như là sự thỏa thuận làm phát sinh nghĩa vụ, tức là tương ứng
với hợp đồng trong quan niệm la tinh.
Cũng
như vậy, không phải hành vi đơn phương nào cũng nhằm tạo ra nghĩa vụ: lập di
chúc là một hành vi đơn phương có tác dụng chuyển giao tài sản của người lập di
chúc cho người thừa kế theo di chúc hoặc người được di tặng chứ không tạo ra
nghĩa vụ ràng buộc người lập di chúc; đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng là
hành vi dân sự đơn phương có tác dụng chấm dứt một nghĩa vụ tồn tại trước đó.
Nói chung, chỉ có cam kết đơn phương, tức là hành vi dân sự theo đó, một người
chủ động cam kết thực hiện việc chuyển giao một quyền, làm hoặc không làm một
việc, mới có khả năng làm phát sinh nghĩa vụ, ví dụ: hứa thưởng. Nghĩa vụ xác
lập từ các cam kết đơn phương, dẫu sao, là vấn đề khá tế nhị trong luật Việt
Nam hiện hành.
Lý thuyết chung về hợp đồng. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan
hệ giữa người và người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các
quan hệ ấy không chỉ hình thành trong lĩnh vực dân sự mà cả trong các lĩnh vực
thương mại, lao động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Mỗi loại hợp đồng
đồng, trong mỗi lĩnh vực, có những đặc điểm rất riêng và, do đó, được chi phối
bởi những quy định riêng. Tuy nhiên, là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả các
hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước và
những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một hệ thống
các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết ước hay còn
gọi là luật chung về hợp đồng.
Trong luật La Mã, khái niệm hợp đồng hình
thành tương đối muộn[1][1].
mãi đến đầu thế kỷ I sau Công nguyên, người La mã mới biết sử dụng thuật ngữ
contractus để chỉ sự thoả thuận ý chí của hai hay nhiều ngườI nhằm xác lập
nghĩa vụ. Người La mã không có lý thuyết chung về hợp đồng mà chỉ có các nhóm
quy tắc áp dụng cho các loại hợp đồng khác nhau.
Luật Anh-Mỹ có lý thuyết chung về hợp đồng như
trong luật la tinh[2][2].
Song đó là một lý thuyết mà người ta chỉ có thể hiểu được một khi từ bỏ hầu như
tất cả các khái niệm của luật latinh và tiếp cận đối tượng nghiên cứu qua chính
lăng kính của văn hoá pháp lý Anh-Mỹ. Đối với người Anh hoặc Mỹ hoặc bất kỳ
người nào thấm nhuần văn hoá pháp lý Anh-Mỹ, hợp đồng là một vụ trao đổi, một bargain; quan hệ kết ước hình thành
trong điều kiện một bên quan tâm đến cái mà bên kia mang lại cho mình, gọi là
vật đánh đổi (consideration).
Tiết I. Khái niệm hợp đồng
I. Định nghĩa
Sự gặp gỡ của ý chí và hiệu lực tương đối của
hợp đồng. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ theo một cơ
chế chung: các bên giao kết thống nhất ý chí về việc ràng buộc lẫn nhau trong
một quan hệ đặc trưng bằng thái độ xử sự của một bên nhằm đáp ứng yêu cầu của
bên kia. Hợp đồng chỉ phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên giao kết và
không tạo ra bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với người thứ ba.
Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Hợp đồng trong luật Việt Nam làm phát sinh các
nghĩa vụ pháp lý dân sự, tức là nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng
chế của bộ máy Nhà nước, chứ không phải là nghĩa vụ tự nhiên, đạo đức hay nghĩa
vụ của lòng nhân ái, của tâm hồn cao thượng.
Các
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải có tính chất tài sản, nghĩa là định giá
được bằng tiền. Hôn nhân cũng là sự thỏa thuận của các bên giao kết, nhưng
không phải là một hợp đồng theo nghĩa của luật dân sự.
Hợp đồng không trói buộc. Một người lái xe chấp nhận cho khách lỡ
đường quá giang có thể đưa khách đến tận nơi mà khách muốn đến, nhưng cũng có
thể yêu cầu khách xuống xe ở một nơi nào đó, giữa chặng đường, ngay cả trong
trường hợp đã hứa trước là sẽ đưa khách đến tận nơi. Người lái xe trong trường
hợp này không giao kết với khách lỡ đường bất kỳ một hợp đồng vận chuyển nào:
cho khách lỡ đường đi nhờ xe chỉ là một cử chỉ của thiện chí. Cử chỉ thiện chí
còn có thể được ghi nhận trong trường hợp một người cho một người khác một lời
tư vấn về sức khoẻ (sử dụng thuốc, thực hiện các bài tập dưỡng sinh,…), về du
lịch, giải trí, về tình yêu, hôn nhân. Tất nhiên, người có cử chỉ thiện chí
phải thực hiện cử chỉ đó với đầy đủ ý thức về trách nhiệm đạo đức đối với người
thụ hưởng thiện chí đó, và cả đối với cộng đồng; nhưng luật không thể quy trách
nhiệm pháp lý của người có cử chỉ thiện chí, ví dụ, do chất lượng chuyên môn
của cử chỉ thiện chí không được bảo đảm…
Có
những hợp đồng chỉ mang tính chất của một cử chỉ lịch sự: một người mời một
người khác đi ăn tối, ăn giỗ; người cha hứa thưởng cho người con một số tiền
lớn, nếu người con vượt qua thành công kỳ thi tuyển sinh đại học,... Không thể
dùng luật hợp đồng để buộc người mời phải bảo đảm chất lượng bữa ăn, buộc người
cha phải thưởng trong trường hợp người con trúng tuyển.
Hợp đồng trói buộc hạn chế. Có những hợp đồng không thực sự trói buộc,
nhưng không hẳn không làm phát sinh các hệ quả pháp lý nhất định. Các cam kết
được đưa ra mang tính chất cam kết danh dự; thế nhưng do hoàn toàn phù hợp với
lợi ích của mỗi bên và với lợi ích công cộng mà những cam kết này cũng được Nhà
nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ điển hình là việc hai bên thoả thuận về việc tự
nguyện tôn trọng các chuẩn mực xử sự trong quan hệ hỗ tương, phù hợp với các
chuẩn mực chung; về việc sẽ cố gắng giải quyết mọi bất đồng bằng cách thương
lượng, không đưa nhau ra Toà án hoặc ra cơ quan Trọng tài.
Tương
tự, các thoả thuận nguyên tắc có thể ràng buộc các bên vào những nghĩa vụ nhất
định một khi các nghĩa vụ ấy được xác định một cách rõ ràng trên cơ sở giải
thích các nguyên tắc được ghi nhận trong thoả thuận ấy.
II.
Phân loại
Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Theo BLDS Ðiều 405, hợp đồng song vụ là hợp
đồng mà tất cả các bên kết ước đều có nghiã vụ đối với nhau, mỗi bên đồng thời
là người có nghĩa vụ và có quyền; còn hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có một
bên có nghĩa vụ. Hợp đồng mua bán là hợp đồng song vụ (bên bán có nghĩa vụ
chuyển quyền sở hữu, giao vật, bảo hành,...; bên mua có nghĩa vụ trả tiền, nhận
vật;...); hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn vụ (chỉ có người bảo lãnh có nghĩa
vụ).
Trong luật thực định Việt Nam, quan hệ giữa
các bên trong hợp đồng song vụ chịu sự chi phối của một số quy tắc không được
áp dụng cho hợp đồng đơn vụ: nếu một bên trong hợp đồng song vụ không thể thực
hiện nghĩa vụ do lỗi của bên kia, thì có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại (Ðiều 413); trong trường hợp các bên trong hợp đồng song vụ
không thỏa thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước, thì các bên phải đồng thời
thực hiện nghĩa vụ đó đối với nhau (Ðiều 411 khoản 2).
Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù. Gọi là không có đền bù hợp đồng theo đó, một
bên chuyển một quyền, thực hiện hoặc không thực hiện một việc vì lợi ích của
bên kia mà không nhận lại một lợi ích nào có tính cách hoàn trả. Các hợp đồng
không có tính chất đó gọi là hợp đồng có đền bù.
Tặng
cho, cho mượn tài sản là những ví dụ điển hình của hợp đồng không có đền bù[3][3].
Có những hợp đồng mang tính chất kép: ủy quyền, cho vay tài sản có thể là hợp
đồng có hoặc không có đền bù tùy theo việc ủy quyền, cho vay có hay không có
kèm theo các điều kiện về tiền thù lao, về lãi. Một số hợp đồng, do bản chất,
luôn là các hợp đồng có đền bù: mua bán, trao đổi, ...
Hợp đồng ưng thuận, hợp đồng trọng thức và hợp
đồng thực tại. Hợp đồng ưng thuận được giao kết chỉ do sự
gặp gỡ của ý chí của các bên mà không cần xúc tiến bất kỳ một thủ tục nào. Hợp
đồng trọng thức được giao kết không chỉ trên cơ sở có sự gặp gỡ của ý chí của
các bên mà còn phải bằng cách hoàn tất một vài thủ tục do pháp luật quy định.
các thủ tục được dự liệu tùy theo trường hợp: có những hợp đồng phải được lập
thành văn bản (hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thuê tài sản,...); có hợp đồng
phải lập thành văn bản có chứng thực, chứng nhận (hợp đồng tặng cho bất động
sản, hợp đồng mua bán nhà ở,...). Hợp đồng thực tại được giao kết không chỉ từ
sự gặp gỡ của ý chí của các bên mà còn từ việc giao vật, đối tượng của hợp
đồng, ví dụ: hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng cho mượn tài sản.
Hợp đồng thương lượng, hợp đồng theo mẫu. Hợp đồng thương lượng là hợp đồng đạt được
như là kết quả sự thảo luận bình đẳng và tự nguyện giữa các bên liên quan: sự
hình thành hợp đồng phản ánh diễn biến của quá trình thảo luận. Ðây là loại hợp
đồng cổ điển. Trong thực tiễn, có nhiều hợp đồng mà nội dung được một bên chuẩn
bị sẵn, được công bố rộng rãi cho mọi người và người đối tác chỉ có thể lựa
chọn giữa chấp nhận và không chấp nhận giao kết chứ hầu như không có cơ hội
thảo luận. Ðiển hình của loại thứ hai này là các hợp đồng vận chuyển đường sắt,
đường không, hợp đồng cung ứng điện, nước, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng mua bán
hàng hóa trong siêu thị. Loại hợp đồng này càng lúc càng trở nên thông dụng,
theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ. Luật gọi đó là hợp đồng theo mẫu (BLDS
Ðiều 406 khoản 1).
Hợp
đồng theo mẫu không thể được giải thích bằng cách dựa vào ý chí chung của các
bên giao kết, bởi ý chí đó, suy cho cùng, không tồn tại. Trong trường hợp hợp
đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng, thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu
phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó (Ðiều 406 khoản 2).
Hợp đồng cá nhân và hợp đồng tập thể. Hợp đồng cá nhân là hợp đồng chỉ ràng buộc
chủ thể nào ưng thuận giao kết, bằng cách tự mình sự bày tỏ ý chí hoặc thông
qua người đại diện bày tỏ ý chí. Hợp đồng tập thể ràng buộc một nhóm chủ thể
(tất nhiên không có tư cách pháp nhân) mà không cần sự ưng thuận của từng chủ
thể thành viên của nhóm. thỏa ước lao động tập thể là ví dụ tốt nhất về hợp
đồng tập thể.
Hợp đồng thực hiện trong khoảnh khắc và hợp
đồng thực hiện tiếp liền trong thời gian. Hợp
đồng thực hiện trong khoảnh khắc là loại hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ được
thực hiện một lần duy nhất; ví dụ, hợp đồng mua bán mà trong đó tài sản bán
được giao và giá bán được thanh toán trong một lần. Hợp đồng thực hiện tiếp
liền trong thờI gian là hợp đồng mà nghĩa vụ được thực hiện thành nhiều lần; ví
dụ, hợp đồng thuê tài sản, mượn tài sản trong một thời hạn[4][4].
Hợp đồng gắn liền với nhân thân của người giao
kết. Có những hợp đồng mà hiệu lực chỉ được duy
trì chừng nào người giao kết và thực hiện đúng là những người đã thoả thuận về
việc xác lập nghĩa vụ; nghĩa là nếu người giao kết và thực hiện không phải là
người đó, thì hợp đồng chấm dứt. Ví dụ điển hình trong luật Việt Nam, là hợp
đồng bảo lãnh, hợp đồng uỷ quyền. Nhân thân được tính đến có thể là nhân thân
chủ quan: người giao kết và thực hiện phải đúng là người đó. Đôi khi việc giao
kết và thực hiện được chấp nhận trên cơ sở nhân thân khách quan: người giao kết
và thực hiện phải là người có năng lực chuyên môn và nói chung có các phẩm chất
chuyên môn nhất định, chứ không nhất thiết là một người có lai lịch nhất định.
Hợp đồng với người tiêu dùng. Từ khi có chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, luật hợp đồng có xu hướng phân biệt hợp đồng giao kết
giữa người hoạt động chuyên nghiệp trong một lĩnh vực nhất định và người tiêu
dùng sản phẩm hoặc dịch vụ thuộc lĩnh vực đó với các loại hợp đồng khác. Hợp
đồng với người tiêu dùng chịu sự chi phối của luật chung bên cạnh một hệ thống
các quy định đặc biệt được xây dựng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng. Luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được đặc trưng bằng một
loạt biện pháp có tác dụng ràng buộc người hoạt động chuyên nghiệp, khi kết ước
với người tiêu dùng, vào các nghĩa vụ thông tin, cố vấn, bảo đảm an toàn,… cho
người tiêu dùng
Tiết
II. Giao kết hợp đồng
Điều kiện nội dung và điều kiện hình thức. Về mặt cấu trúc pháp lý, hợp đồng trong luật
Việt Nam được xác lập trên cơ sở có sự ưng thuận của các bên giao kết và có đối
tượng được xác định rõ. Về nội dung, hợp đồng không được vi phạm điều cấm của
pháp luật và đạo đức xã hội, cũng như phải phản ánh trung thực ý chí nội tâm
của các bên (nghĩa là không phải được
dùng như một bức màn che giấu ý chí nội tâm đó). Về hình thức, hợp đồng được
giao kết, trên nguyên tắc, bằng sự gặp gỡ ý chí của các bên giao kết; cá biệt,
trong một số trường hợp, do tính chất, tầm quan trọng của hợp đồng, luật đòi
hỏi hình thức giao kết hợp đồng phải đáp ứng một số điều kiện đặc biệt.
Nhưng
để có thể bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu, điều tiên quyết là các bên phải có
đầy đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, nghĩa là phải có năng lực giao
kết.
Phân
tiết I. Năng lực giao kết
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Luật hiện hành nói rằng các giao dịch dân sự
phải do người có năng lực hành vi xác lập, thì mới có giá trị (BLDS Ðiều 131
khoản 1). Ðúng là người không có năng lực hành vi không thể bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Nhưng người không có năng lực
hành vi mà có khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự (nghĩa là có năng lực pháp
luật), vẫn có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà mình được phép
có, thông qua vai trò của người đại diện[5][5].
Suy cho cùng, chỉ có người có không năng lực pháp luật mới không có quyền giao
kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền mà người này không được phép có: không có
khả năng hưởng một quyền, người này không thể xác lập quyền đó, dù tự mình hay
qua người đại diện[6][6].
Ví dụ: người giám hộ không được phép tặng tài sản của người được giám hộ cho
người khác, không phải vì người được giám hộ không được phép tự mình tặng cho
(năng lực hành vi), mà vì người được giám hộ không có khả năng hưởng quyền tặng
cho có đối tượng là tài sản của người được giám hộ (năng lực pháp luật); trong
khi đó, người được giám hộ có quyền bán tài sản của mình (năng lực pháp luật),
nhưng không có quyền tự mình thực hiện quyền đó (năng lực hành vi), mà phải
thực hiện thông qua người giám hộ..
Nếu
người được giám hộ tự mình giao kết hợp đồng, thì ta mới thực sự có trường hợp
giao kết hợp đồng của người không có năng lực hành vi.
Chế tài trong trường hợp không có năng lực
giao kết. Các giao dịch do người không có năng lực
hành vi xác lập chỉ có thể bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của những người
được luật xác định (người giám hộ, người được giám hộ sau khi chấm dứt việc
giám hộ). Các giao dịch do người không có năng lực pháp luật xác lập cũng có
thể chỉ được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của một vài người được luật xác
định, nhưng cũng có trường hợp được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của bất kỳ
người nào có quan tâm, nhất là khi việc xác lập giao dịch có tác dụng xâm phạm
các lợi ích chung. Ví dụ: cơ quan hành chính Nhà nước không có quyền kinh
doanh; bất kỳ người nào cũng có thể yêu cầu tuyên bố vô hiệu một hợp đồng
thương mại do cơ quan hành chính Nhà nước giao kết.
Phân
tiết II. Sự ưng thuận của bên giao kết
I. Vai trò của ý chí
Tính độc lập của ý chí. Học thuyết về tính độc lập của ý chí được
thiết lập trong triết học luật. Tư tưởng chủ đạo là: ý chí của con người là
luật; con người chỉ bị ràng buộc vào một nghĩa vụ bởi ý chí của mình, một cách
trực tiếp trong quan hệ hợp đồng (ý chí đặc thù) hoặc một cách gián tiếp một
khi nghĩa vụ do luật áp đặt (ý chí chung được suy đoán). Cũng vì ý chí tạo ra
nghĩa vụ mà hợp đồng phải được tự do giao kết. Cá nhân có quyền tự do quyết
định giao kết hoặc không giao kết hợp đồng; có quyền tự do quyết định hình thức
và nội dung của hợp đồng.
Thực
ra, không có hệ thống luật nào thừa nhận giá trị tuyệt đối của học thuyết về
tính độc lập của ý chí. Sự tự do trong xã hội có tổ chức luôn mang tính tất yếu.
Trong luật Việt Nam hiện hành, tính độc
lập của ý chí được chấp nhận trong chừng mực tôn trọng những giới hạn do luật
thiết lập.
Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung
của hợp đồng. Chủ thể của quan hệ pháp luật có quyền tự do
giao kết hoặc không giao kết hợp đồng. Quy tắc này được thừa nhận tại BLDS Ðiều
395 khoản 1. Một trong những nội dung của sự tự do giao kết là sự tự do xác
định nội dung của hợp đồng: các bên có quyền thỏa thuận về loại hình, đối
tượng, điều kiện giao dịch, thời gian, địa điểm giao dịch, trách nhiệm của mỗi
bên,... Khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào
ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải
thích điều khoản đó (Ðiều 408 khoản 1). Nói chung, không có quan hệ kết ước
được xác lập trái với ý chí của người kết ước.
Tuy
nhiên, nội dung của hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội (BLDS
Ðiều 395 khoản 1). Pháp luật mà các bên không được phép làm trái khi giao kết
hợp đồng là pháp luật mệnh lệnh; còn đạo đức xã hội mà các bên không được phép
làm trái chủ yếu bao gồm những giá trị tinh thần liên quan đến gia đình, đến
đời sống cộng đồng của cá nhân.
Có
trường hợp luật buộc chủ thể quan hệ pháp luật phải giao kết hợp đồng, như một
biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn xã hội và trật tự công cộng. Ví dụ: tất cả
các chủ xe cơ giới đều phải giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới (Nghị định số 115/1997/NÐ-CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ).
Có khi
luật hạn chế quyền lựa chọn người đối tác trong việc xác lập một số quan hệ kết
ước xác định. Ví dụ: người có nhà ở cho thuê, muốn bán nhà, phải tôn trọng
quyền ưu tiên mua của người thuê. Người sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản chỉ có thể thế chấp quyền sử dụng đất cho tổ chức
tín dụng để vay tiền, không được thế chấp cho ai khác.
Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình
thức của hợp đồng. Hợp
đồng dân sự được giao kết một khi các bên thống nhất ý chí về việc giao kết:
bên đề nghị nhận được lời chấp nhận đề nghị của bên được đề nghị hoặc các bên
thỏa thuận xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng (BLDS Ðiều 403 khoản 1). Trên
nguyên tắc, sự ưng thuận, chứ không phải hình thức, là điều kiện chủ yếu để hợp
đồng có giá trị. Một khi cần ràng buộc sự giao kết hợp đồng vào những điều kiện
nào đó về hình thức, luật phải có những quy định cụ thể. Hạn chế quyền tự do
kết ước mà không bị ràng buộc vào các khung hình thức kết ước, bằng cách thiết
lập các khung hình thức kết ước cụ thể cho những hợp đồng nhất định, là những
ngoại lệ của nguyên tắc.
Tính
độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng còn được khẳng định
bằng cách quy tắc đòi hỏi việc giải thích hợp đồng theo ý chí thực: trong
trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí được bày tỏ và cách xử sự theo sự thôi
thúc của ý chí nội tâm của các bên, thì ý chí nội tâm phải được coi là căn cứ
để đánh giá sự nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ[7][7].
II. Tiêu chí đánh giá sự ưng thuận
Sự ưng
thuận chỉ có giá trị, một khi ý chí được bày tỏ một cách tự nguyện và chính
xác. Sự ưng thuận được đạt tới thông qua các biện pháp trao đổi ý chí được bày
tỏ, trong không gian và trong thời gian, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ưng
thuận giao kết hợp đồng là sự thống nhất ý chí của các bên giao kết về việc xác
lập quan hệ kết ước có nội dung đã được các bên biết rõ và chấp nhận.
A. Bày tỏ ý chí
Bày tỏ ý chí rõ ràng. Gọi là được bày tỏ một cách rõ ràng ý chí
được bộc lộ cho người khác. Việc bộc lộ ý chí có thể được thực hiện bằng lời
nói hoặc bằng chữ viết. Cũng có trường hợp ý chí được bộc lộ bằng những cử chỉ
mà ý nghĩa được xác định trước bằng các quy ước xã hội (ví dụ, leo lên xe buýt
ở một trạm dừng là hình thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng vận chuyển; lấy
một món hàng bày trên kệ hàng của một siêu thị và đi đến quầy tính tiền là hình
thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng mua bán). Nói chung, chữ viết (văn bản)
là phương tiện bộc lộ ý chí thông dụng nhất trong lĩnh vực hợp đồng dân sự; tuy
nhiên, trong trường hợp luật không buộc giao kết hợp đồng hoặc chứng minh sự
tồn tại của hợp đồng bằng văn bản, thì sự bộc lộ ý chí có thể được chứng minh
bằng tất cả các phương tiện được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ (văn
bản, giấy tờ giao dịch, vật chứng về giao dịch điện tử, điện thoại, lời khai, lời
thú nhận, sự suy đoán,…).
Bày tỏ ý chí mặc nhiên. Ý chí coi như được bày tỏ một cách mặc nhiên
trong trường hợp người bày tỏ ý chí không bộc lộ ý chí một cách rõ ràng mà chỉ
có một thái độ cho thấy mong muốn của mình. Thái độ đó không phải là sự tuyên
bố ý chí cho người khác biết mà chỉ là sự biểu hiện của ý chí đó. Ví dụ, sau
khi nhận được giấy uỷ quyền, người được uỷ quyền thực hiện các công việc được
giao theo hợp đồng uỷ quyền mà không tuyên bố rõ việc chấp nhận của mình đối
với sự uỷ quyền đó. Thái độ (biểu hiện của ý chí) có thể mang tính chất tích
cực (thực hiện một hành động) hoặc thụ động (chấp nhận hoặc im lặng).
B. Sự ưng thuận không hoàn hảo
Đặt vấn đề. Sự
ưng thuận của một người trong việc giao kết hợp đồng chỉ có ý nghĩa pháp lý và
có hiệu lực ràng buộc, khi nào đó là sự ưng thuận xuất phát từ ý chí thực, tự
do và được bày tỏ trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về việc mình làm. Không có đủ các
yếu tố đó, sự ưng thuận trở nên không hoàn hảo và không đạt chất lượng của một
yếu tố cơ bản trong sự hình thành quan hệ kết ước.
Không có sự ưng thuận. Khái niệm ưng thuận không hoàn hảo do có tì
vết được xây dựng trong điều kiện sự ưng thuận có thật nhưng không hoàn hảo do
sự tồn tại của các tì vết. Có trường hợp sự ưng thuận hoàn toàn không tồn tại,
khi đó cũng không thể có hợp đồng. BLDS hiện hành có dự kiến một trong các
trường hợp không tồn tại sự ưng thuận tại Điều 143: trường hợp người xác lập
giao dịch có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Hợp đồng trong trường
hợp này vô hiệu.
1. Sự
nhầm lẫn
a. Khái niệm
Luật Việt Nam. Nhầm
lẫn, trong ngôn ngữ pháp lý tổng quát, là sự nhận định không chính xác về cái
có thật; tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Theo BLDS Ðiều 341 khoản
1, khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao
dịch, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch; nếu bên kia
không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn, thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối tượng nhầm lẫn trong luật
hợp đồng Việt Nam, như vậy, phải là một yếu tố thuộc nội dung chủ yếu của hợp
đồng.
Luật so sánh. Trong
luật của Pháp, các trường hợp nhầm lẫn liên quan đến hợp đồng có thể được
xếp thành ba nhóm[8][8]:
1 -
Nhầm lẫn về chất lượng cơ bản của đối tượng của hợp đồng - Người giao kết có
thể nghĩ rằng đối tượng của hợp đồng có những phẩm chất cơ bản đặc trưng và
chính suy nghĩ đó quyết định sự ưng thuận của người này; cuối cùng, những phẩm
chất đó không tồn tại. Ví dụ: một người chấp nhận mua một bức tranh vì tin rằng
bức tranh đó của họa sĩ X, nhưng thực ra đó là tranh của người khác.
2 -
Nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết - Người giao kết có thể tưởng rằng
đang giao kết với một người có lai lịch được biết rõ và chấp nhận giao kết trên
cơ sở quan tâm đến lai lịch của người đối tác; nhưng thực ra người sau này
không mang lai lịch đó. Ví dụ: một người hậu tạ một người nọ một tài sản do tin
rằng người được hậu tạ đã làm một việc cho mình; nhưng thực ra, người làm được
việc không phải là người sau này. Sự nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết
chỉ được coi như một căn cứ vô hiệu hoá hợp đồng trong trường hợp hợp đồng
thuộc loại gắn với nhân thân của ngườI giao kết (intuitu personae).
3 -
Nhầm lẫn về hợp đồng - Người giao kết có thể nhầm lẫn về tinh chất của quan hệ
kết ước, ví dụ: giao kết hợp đồng mua bán mà tưởng nhầm là hợp đồng tặng cho.
Người giao kết cũng có thể nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng, ví dụ: một bên
tưởng đã mua chú heo thịt, còn bên kia chỉ bán heo giống. Và cuối cùng, người
giao kết có thể nhầm lẫn về nguyên nhân giao kết, ví dụ: một người tặng cho một
người nọ một tài sản vì tưởng rằng người được tặng cho là con mình; sau này,
người được tặng cho rõ ra là con của người khác.
Trong luật Anh-Mỹ, các
quan niệm về nhầm lẫn không giống nhau tuỳ theo việc xây dựng quan niệm được
thực hiện theo Common law hoặc theo Equity.
Theo
Common law, chỉ những nhầm lẫn gọi là cơ bản (fundamental mistake) mới khiến
cho hợp đồng vô hiệu; những nhầm lẫn thường (trivial mistake) không ảnh hưởng
gì đến giá trị của hợp đồng. khái niệm nhầm lẫn cơ bản được xây dựng dựa trên
tư tưởng chủ đạo của lý thuyết về hợp đồng trong luật Anh-Mỹ, theo đó, việc xác
định sự tồn tại của quan hệ kết ước và cả nội dung của quan hệ đó dựa vào ý chí
được các bên bày tỏ chứ không dựa vào ý chí nội tâm của họ[9][9].
A mua của B một con ngựa; A nghĩ rằng đây là một con ngựa khoẻ mạnh và, thực
ra, nếu biết rằng con ngựa không khoẻ mạnh, thì đã không mua; về phần mình, B
chỉ quan tâm tới việc bán ngựa bất kể khoẻ hay ốm và cũng không nghĩ đến việc
người mua chỉ muốn mua ngựa khoẻ. Trong trường hợp này, người bán không thể kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp
đồng do có sự nhầm lẫn, nếu cuối cùng con ngựa mua được thực sự ốm yếu.
Theo
Equity, các hợp đồng được giao kết do sự nhầm lẫn không cơ bản vẫn không thể bị
vô hiệu hoá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người nhầm lẫn có thể kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại hoặc cho phép đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc cho
điều chỉnh nội dung hợp đồng để làm cho thoả thuận ban đầu được chính xác hơn.
Nhận xét. Dựa
vào BLDS Ðiều 341 khoản 1 đã dẫn, ta thấy rằng:
- Luật
Việt Nam không xây dựng khái niệm nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết. Trước
và sau khi phát hiện ra sự nhầm lẫn, người bị nhầm lẫn luôn có duy nhất một
“bên kia” của quan hệ kết ước;
- Luật
Việt Nam không xây dựng lý thuyết về nguyên nhân của nghĩa vụ, bởi vậy, cũng
không thừa nhận khái niệm nhầm lẫn về nguyên nhân giao kết.
- “Nội
dung chủ yếu của giao dịch” (của hợp đồng) là một khái niệm rất rộng, có thể
bao gồm cả “chất lượng cơ bản của đối tượng của nghĩa vụ”, tính chất của quan
hệ kết ước, đối tượng của hợp đồng,... Nhầm lẫn hợp đồng mua bán thành hợp đồng
tặng cho là nhầm lẫn về toàn bộ nội dung của hợp đồng; muốn mua một căn hộ ở
đầu hành lang chung cư, nhưng cuối cùng lại mua phải căn nhà ở cuối hành lang
chung cư là nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng; mua một chiếc xe tân trang mà
nghĩ rằng đã mua xe mới xuất xưởng, là nhầm lẫn về chất lượng cơ bản của đối
tượng của hợp đồng; giao kết hợp đồng mua bán nông sản với số lượng xác định
theo kg nhưng lại ngỡ rằng đã giao kết mua bán theo trái, quả, củ;... Thực tiễn
áp dụng pháp luật ở Việt Nam chưa tổng kết các trường hợp nhầm lẫn về nội dung
chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung.
b. Điều
kiện xác lập tình trạng nhầm lẫn
Giao kết hợp đồng do nhầm lẫn. Người giao kết chỉ có thể phản ứng với tư
cách người bị nhầm lẫn, một khi chính sự nhầm lẫn đó đã có ảnh hưởng quyết định
đối với sự ưng thuận của mình. “Khi một bên do nhầm lẫn.... mà xác lập giao
dịch...”. Một người muốn trang trí phòng khách của mình bằng một bức tranh nào
đó thuộc trường phái ấn tượng; được giới thiệu rằng bức tranh muốn mua là của
họa sĩ ấn tượng X, người này chấp nhận mua; ít lâu sau, có người phát hiện rằng
bức tranh đó là của họa sĩ ấn tượng Y; người mua không thể yêu cầu tuyên bố hợp
đồng mua bán vô hiệu, bởi sự nhầm lẫn không ảnh hưởng đến ý chí của người này
lúc giao kết hợp đồng: người này quan tâm đến việc tìm kiếm một bức tranh ấn
tượng, không phải chỉ quan tâm riêng đến tranh ấn tượng của họa sĩ X.
Sự nhầm
lẫn có thể xảy ra đối với cả hai bên giao kết hoặc chỉ đối với một bên. Trong
trường hợp sự nhầm lẫn chỉ xảy đối với một bên, thì điều quan trọng là bên kia
không phải là người chủ động thực hiện một hành vi nào đó nhằm tạo ra sự nhầm
lẫn ấy[10][10]:
nếu một bên thực hiện một hành vi một cách có ý thức nhằm tạo ra sự nhầm lẫn
của bên kia thì ta có sự lừa dối chứ không phải sự nhầm lẫn nữa.
Luật
của Pháp còn đòi hỏi rằng sự nhầm lẫn phải có thể tha thứ được (excusable) mới có thể là căn cứ để triển
khai các biện pháp bảo vệ dành cho người nhầm lẫn[11][11].
Có trường hợp sự nhầm lẫn là không thể được giải thích bằng cách nào khác ngoài
việc quy cho người nhầm lẫn sự thờ ơ, vô trách nhiệm đối với việc bảo vệ quyền
lợi của chính mình: kiến trúc sư quên mất việc tìm hiểu các quy định về kiến
trúc áp dụng tại khu vực và đã lập một sơ đồ thiết kế không phù hợp; hãng vận
tải đường bộ mua một chiếc xe mà không tìm hiểu xuất xứ;…
Bằng chứng của sự nhầm lẫn. Một cách hợp lý, người cho rằng mình đã nhầm
lẫn phải chứng minh sự nhầm lẫn đó. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng
bất kỳ phương tiện nào được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ (văn bản,
lời khai, lời thú nhận, người làm chứng, đối chất,...). Người nhầm lẫn phải
chứng minh không chỉ việc nhầm lẫn mà còn cả tính chất quyết định của sự nhầm lẫn đối với sự ưng thuận của
mình trong việc giao kết hợp đồng.
c. Hệ quả của sự nhầm lẫn
Hai giai đoạn. Có vẻ
như luật không cho phép người bị nhầm lẫn phát ngay yêu cầu tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do nhầm lẫn. “Khi một bên do nhầm lẫn..., thì có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch”. Trước hết, người bị nhầm lẫn phải thảo luận
với người đối tác về việc sửa đổi nội dung hợp đồng. Nếu người đối tác từ chối
thảo luận hoặc thảo luận không có kết quả như ý muốn của người bị nhầm lẫn, thì
người này mới có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Song,
giải pháp này khả thi trong hầu hết các trường hợp mà cả hai bên đều nhầm:
người mua và người bán trong vụ mua bán một bức tranh đều tưởng rằng bức tranh
là của họa sĩ X; khi phát hiện rằng tranh không phải của X, thì hai bên có thể
thảo luận lại về nội dung hợp đồng mua bán, đặc biệt là về giá bán: vật mua bán
không thay đổi, nhưng cách nhìn nhận của hai bên về tính chất và giá trị của
vật thay đổi. Còn trong trường hợp chỉ có một bên bị nhầm, thì hẳn các bên
không có gì để thảo luận thêm với nhau về hợp đồng có liên quan: người bán biết
rằng mình đang bán bức tranh của X, trong khi người mua ngỡ đang mua bức tranh
của Y; nếu, sau khi biết mình bị nhầm, người mua vẫn chấp nhận mua với điều
kiện người bán chấp nhận giảm giá, thì đó là một hợp đồng mua bán có đối tượng
khác, một hợp đồng mới; nếu người bị nhầm lẫn vẫn chỉ quan tâm đến bức tranh
mình muốn mua, mà người bán có, thì các bên càng cần phải giao kết một hợp đồng
khác; và nếu người bị nhầm lẫn chỉ quan tâm đến bức tranh mình muốn mua, mà
người bán không có, thì quyền yêu cầu người bán sửa đổi nội dung hợp đồng không
có ý nghĩa gì đối với người bị nhầm lẫn.
Cũng có
trường hợp cả hai bên đều nhầm, nhưng việc sửa đối nội dung hợp đồng cũng không
khả thi. Ví dụ, A tặng cho B một tài sản vì lầm tưởng rằng B đã cứu mạng mình;
thực ra, B cũng đã có cứu mạng một người khác và khi nhận quà tặng của A, nhầm
tưởng rằng A chính là người khác đó. Nếu mọi việc sau này trở nên rõ ràng đối
với cả hai, thì, suy cho cùng, chẳng có bên nào có lợi ích để sửa đổi nội dung
hợp đồng.
Vô hiệu do nhầm lẫn. Người có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu phải
là người nhầm lẫn. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày xác lập giao dịch
(BLDS Điều 145 khoản 1). Bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi
thường thiệt hại (Điều 141 khoản 2).
2. Sự lừa dối
a. Khái niệm
Ðịnh nghĩa. Theo
BLDS Ðiều 142 khoản 1, lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một
bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Người giao kết với người
lừa dối không nhầm, mà bị lừa, hay đúng hơn là bị người lừa dối dẫn dụ vào sự
nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn do bị lừa dối được hình dung trong một phạm vi khá rộng
so với sự nhầm lẫn tự động phân tích ở trên: người nhầm lẫn tự động chỉ được
bảo vệ trong trường hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; trong khi
người nhầm lẫn do bị lừa dối có thể được bảo vệ cả trong trường hợp nhầm lẫn về
chủ thể giao kết, về tính chất của đối tượng, về nội dung của giao dịch.
b. Ðiều kiện của sự lừa dối
Người lừa dối phải là bên kết ước ? “lừa dối là hành vi cố ý của một bên...”. Luật
Việt Nam không xây dựng khái niệm lừa dối của người thứ ba. Tuy nhiên, luật
không đòi hỏi rằng người kết ước phải là người tổ chức việc lừa dối, cũng không
nói rằng người này là người duy nhất thực hiện hành vi lừa dối. Nói chung, điều
quan trọng là phải có vai trò tích cực của bên kết ước trong vụ lừa dối; còn
vấn đề có bao nhiêu người tham gia vào vụ lừa dối không phải là vấn đề cần được
giải quyết trong khuôn khố xác định các điều kiện của hành vi lừa dối.
Người kết ước không trung thực. Việc lừa dối của người kết ước được ghi
nhận, một khi người này có hành vi lừa dối chủ động (cung cấp thông tin sai sự
thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối) - với tư cách người tổ chức, người thực
hiện, người đồng lõa với người thứ ba hoặc người giúp sức -, hoặc có hành vi
lừa dối thụ động (không hành động), nghĩa là biết người kết ước với mình bị
nhầm nhưng im lặng để hưởng lợi từ việc người kết ước chấp nhận giao kết hợp
đồng.
Trong
trường hợp lừa dối bằng hành vi thụ động, điều quan trọng là người lừa dối phải
có nghĩa vụ thông tin đối với người đối tác và thái độ thụ động trở thành biểu
hiện của việc không thực hiện nghĩa vụ thông tin ấy.
Ý định lừa dối. Người
lừa dối phải thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, nghĩa là thực hiện hành
vi lừa dối một cách có ý thức với mong muốn có được sự chấp nhận giao kết hợp
đồng của người bị lừa dối. Hành vi lừa dối vả lại, phải bị đánh giá xấu theo
các chuẩn mực chung về đạo đức; có những thủ đoạn lừa dối chấp nhận được trong
thực tiễn giao dịch, do tính chất vô hại của chúng, ví dụ, quảng cáo bột giặt
“chỉ ngâm thôi đã sạch”, kem đánh răng có tác dụng làm cho “răng chắc như
thép”,... Thế nào là xấu hoặc chấp nhận được theo các chuẩn mực chung về đạo
đức là vấn đề không đơn giản.
Sự lừa dối phải có tác dụng quyết định đối với
sự ưng thuận. “Lừa dối là hành vi cố ý... nhằm là cho bên
kia hiểu sai... nên đã xác lập giao dịch...”. Một người đồng ý mua một chiếc xe
máy, người bán nói dối về những ưu điểm không tồn tại của xe máy để người mua
chấp nhận trả giá cao hơn: luật của Pháp nói rằng người bán trong trường hợp
này cũng đã lừa dối, nhưng không phải để dẫn dụ người mua đi đến chỗ giao kết
hợp đồng mà chỉ để tìm cách đưa vào hợp đồng, mà nội dung đã được thống nhất về
cơ bản, một điều khoản có lợi cho mình; người mua trong trường hợp này chỉ có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không thể xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Có vẻ như đây không phải là giải pháp được xây dựng trong luật Việt Nam: sự ưng
thuận của người kết ước trong luật Việt Nam, dù chỉ không hoàn hảo ở một vài
điểm thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng, cũng là sự ưng thuận không hoàn hảo
đối với toàn bộ hợp đồng.
c. Hệ quả của sự lừa dối
Vô hiệu do lừa dối. Sự
lừa dối chịu những biện pháp chế tài khá nghiêm khắc trong luật Việt Nam: người
bị lừa dối có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (Ðiều 142 khoản 1), có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Ðiều 142 khoản 2); tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức của người
lừa dối bị tịch thu sung quỹ Nhà nước (Ðiều 142 khoản 2)[12][12].
Nếu hành vi lừa dối cấu thành tội phạm, thì người lừa dối có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Điều bất ngờ là mặc dù các biện pháp chề tài tỏ ra khá
nghiêm khắc, thời hiệu để yêu cầu thực hiện các biện pháp này cũng chỉ ngang
bằng thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, nghĩa là một năm
kể từ ngày xác lập giao dịch. Một năm đúng là ngắn, càng ngắn hơn trong điều
kiện thời hiệu được tính từ ngày xác lập giao dịch chứ không phải từ ngày phát
hiện ra sự lừa dối: có người chỉ biết mình bị lừa dối hơn một năm sau khi xác
lập giao dịch và do đó sẽ không có quyền khởi kiện.
3. Sự
đe dọa
a. Khái niệm
Ðịnh nghĩa. Theo
BLDS Ðiều 142 khoản 2, đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một
bên nhằm làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của người thân thích. Luật dùng từ “thực hiện”, nhưng ta có thể nghĩ đến
việc “xác lập”: một giao dịch xác lập không phải dưới sự đe dọa không thể bị
tuyên bố vô hiệu vì lý do người xác lập bị đe dọa phải thực hiện. Ví dụ: một
hợp đồng mua bán tài sản được giao kết một cách tự nguyện; người mua trì hoãn
việc trả tiền; người bán dọa sẽ giết người mua, nếu người sau này không trả
tiền; người bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người,
nhưng người mua không thể xin tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu vì lý do có sự
đe dọa của người bán nhằm đốc thúc người mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền, một
nghĩa vụ được xác lập đúng luật trong khuôn khổ hợp đồng. Người mua cũng không
thể xin miễn thực hiện nghĩa vụ trả tiền do đã bị đe doạ (một cách không chính
đáng)
b. Ðiều kiện của sự đe dọa
Sự tiềm ẩn của hiểm hoạ. Nếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đã
thực hiện các biện pháp nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,... hoặc nhằm đưa nạn nhân vào tình trạng không
thể nhận thức được hành vi của mình (say ma túy, say rượu) để nạn nhân chấp
nhận giao kết hợp đồng, thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuận không
hoàn hảo mà do hoàn toàn không có sự ưng thuận. “Ðe dọa”, trong khung cảnh của
Ðiều 142 khoản 1, được hình dung như một hành vi có tác dụng dẫn dắt ý chí của
người bị đe dọa đi theo ý chí của người đe dọa mà, người bị đe dọa, dù không
muốn, không thể (hoặc không dám), cưỡng lại. Nói rõ hơn, đe dọa, ở góc nhìn của
người bị đe dọa, hình thành từ hai yếu tố: một yếu tố khách quan - mối nguy
hiểm bủa vây - và yếu tố chủ quan - nỗi sợ. Chính dưới sự đe dọa đó mà ý chí
được bày của người bị đe dọa không thể phản ánh trung thực ý chí nội tâm của
người này.
Người đe doạ. Luật
nói rằng “Ðe dọa... là hành vi cố ý của một bên”. Thoạt trông, điều đó có nghĩa
rằng, cũng như việc lừa dối, việc đe dọa phải xuất phát từ bên kết ước: không
có đe dọa xuất phát từ người thứ ba. Song, có thể tin rằng “một bên” và “bên
kia”, nói trong định nghĩa về đe dọa tại Ðiều 142 khoản 1, là các bên trong
quan hệ đe dọa chứ không phải các bên trong giao dịch dân sự xác lập dưới sự đe
dọa. Với cách hiểu đó, thì đe dọa có thể là hành vi của bất kỳ người nào, không
nhất thiết là hành vi của người kết ước với người bị đe dọa. Phải chấp nhận
giải pháp vừa nêu, nếu không người bị đe dọa sẽ không được bảo vệ, một khi sự
đe dọa xuất phát từ một người thứ ba mà không phải là người kết ước. Ví dụ:
người chồng vay nợ, Ngân hàng yêu cầu có người bảo lãnh; người chồng buộc người
vợ đứng ra bảo lãnh cho mình, người vợ không muốn nhưng không dám phản đối, do
bị đe dọa; hợp đồng bảo lãnh được giao kết giữa người vợ và Ngân hàng trong đó,
người bảo lãnh đã giao kết dưới sự bảo lãnh mà người bảo lãnh không biết. Người
bảo lãnh trong ví dụ đó phải có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Tính chất của sự đe doạ. Sự đe dọa phải có tác dụng quyết định đối
với sự ưng thuận (miễn cưỡng) của người bị đe dọa, nghĩa là người bị đe dọa
chấp nhận giao kết chỉ vì bị đe dọa.
Luật
của Pháp còn xây dựng khái niệm đe doạ
không chính đáng, để phân biệt với khái niệm gây sức ép chính đáng, là sự
đe doạ không dẫn tới khả năng vô hiệu hoá giao dịch. Một trong những trường hợp
gây sức ép chính đáng là việc đe doạ thực hiện một quyền hợp pháp kèm theo yêu
cầu đánh đổi quyền này với sự ưng thuận
của người bị đe doạ trong việc xác lập giao dịch với những điều kiện hoàn toàn
bình thường. Chính đáng, bởi vì, một là, việc gây sức ép không bao hàm một dự
tính trái pháp luật; hai là, người gây sức ép không thu nhận các lợi ích bất
thường, quá đáng từ giao dịch và người bị gây sức ép cũng không bị thiệt hại do
việc thực hiện giao dịch ấy.
Người bị đe doạ. Hành
vi đe dọa có thể được thực hiện đối với chính người giao kết hoặc đối với những
người thân thích của người này. “Thân thích” hàm nghĩa rằng giữa những người có
liên quan có mối quan hệ gia đình: hôn nhân, thân thuộc do huyết thống, quan hệ
nuôi dưỡng. Người giám hộ và người được giám hộ không phải là những người thân
thích chỉ vì có quan hệ giám hộ, cũng như người bị hạn chế năng lực hành vi và
người đại diện.
Ðối
tượng của hành vi đe doạ có thể là con người (đe doạ dùng vũ lực để gây thương
tích, đe doạ công bố các thông tin về đời tư,…) hoặc tài sản (đe doạ đốt nhà,
huỷ hoại cây cối, mùa màng,…).
c. Hệ quả của sự đe dọa.
Người
đe dọa có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hành vi đe dọa
cấu thành tội phạm. Giao dịch xác lập dưới sự đe dọa có thể bị tuyên bố vô hiệu
theo yêu cầu của người bị đe dọa (Ðiều 142 khoản 1). Ngoài ra, người đe dọa
phải bồi thường thiệt hại cho người bị đe dọa và tài sản giao dịch, hoa lợi,
lợi tức của người đe dọa bị tịch thu sung quỹ Nhà nước (Ðiều 142 khoản 2)[13][13].
Trong trường hợp người đe dọa không phải là người cùng giao kết, thì cũng chính
người đe dọa sẽ phải bồi thường thiệt hại nhưng không thể có vấn đề tịch thu
tài sản, bởi tài sản giao dịch trong trường hợp này không phải của người đe dọa
(như trong ví dụ về hợp đồng bảo lãnh nêu trên).
Thời
hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do có sự đe doạ cũng là 1 năm từ ngày
xác lập giao dịch (BLDS Điều 145 khoản 1).
C. Trao đổi ý chí
Trao
đổi ý chí là việc thông tin được thực hiện giữa các bên đối tác nhằm đi đến
thống nhất ý chí về nội dung của hợp đồng và làm cho hợp đồng hình thành. Việc
trao đổi ý chí được thực hiện theo hai bước, có thể được tiến hành cách nhau một
khoảng thời gian, nhưng cũng có thể đồng thời: đề nghị giao kết hợp đồng của
một bên và chấp nhận đề nghị của bên kia.
1. Ðề
nghị giao kết hợp đồng
a. Khái niệm.
Ðề nghị
giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người về việc mong muốn giao kết
hợp đồng với một người khác trên một đối tượng và trong những điều kiện đã được
người đề nghị xác định rõ[14][14].
Ðề nghị có thể được gửi đến một người đối tác xác định hoặc không xác định (đề
nghị với công chúng). Ðó có thể là lời đề nghị rõ ràng - một lời mời trực tiếp
- hoặc mặc nhiên - như trưng bày hàng hóa ở quầy hàng kèm theo giá bán (đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán), đặt máy điện thoại sử dụng thẻ ở nơi công cộng (đề
nghị giao kết hợp đồng dịch vụ thông tin liên lac).
Đề nghị
giao kết hợp đồng có thể coi là giao dịch nằm ở “cận trên” của thương lượng và
ở “cận dưới” của hứa hợp đồng: cao hơn thương lượng, đề nghị giao kết hợp đồng
không phải là một lời mời gọi đi vào các cuộc bàn cãi về nội dung chủ yếu của
hợp đồng; thấp hơn hứa hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng chưa phải là một cam
kết về việc thực hiện một hợp đồng nào đó, bởi mỗi một lý do đơn giản là chưa
xác định được người thụ hưởng một cam kết như thế.
b. Hình thức đề nghị
Luật
Việt Nam hiện hành không có quy định riêng về hình thức đề nghị. Vậy, việc đề
nghị tuân thủ các quy định chung về hình thức giao dịch: đề nghị, một loại giao
dịch, có thể được thể hiện bằng lời nói (trực tiếp hoặc được ghi âm và phát
lại), bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể (BLDS Ðiều 133). Ngay cả trong
trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nhất định, thì đề
nghị giao kết hợp đồng cũng có thể được ghi nhận dưới hình thức khác.
Thông
thường lời đề nghị được đưa ra một cách rõ ràng dưới các hình thức xử sự chủ
động của người đề nghị (rao, chào mời, đỗ xe tại bãi đón khách, trưng bày hàng
với giá niêm yết sẵn, bày công cụ, phương tiện tại nơi kinh doanh,…) . Riêng
trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng của người kinh doanh chuyên nghiệp
dành cho người tiêu dùng còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng (Nghị định số 69-CP ngày 02/10/2001 Điều 8):
mô tả chi tiết quy cách, xuất xứ hàng hoá, dịch vụ, chỉ dẫn cách sử dụng hàng
hoá, cảnh báo về tính chất nguy hiểm của hàng hoá, dịch vụ do mình cung
ứng,…
c. Các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng.
Ðề nghị
giao kết hợp đồng sẽ trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận
giao kết theo các điều kiện được đưa ra trong đề nghị đó[15][15].
Bởi vậy:
Ðề nghị
giao kết hợp đồng phải chắc chắn. nghĩa là phải thể hiện ý chí dứt khoát của
người đề nghị: hợp đồng sẽ phải được người đề nghị giao kết nếu lời đề nghị
được chấp nhận. Không có tính chất này, thì cái gọi là đề nghị giao kết hợp
đồng thực ra chỉ là một lời mời thương lượng. Ví dụ: một người sử dụng lao động
đăng thông báo công khai về việc cần tuyển dụng một số người lao động trong một
hoặc nhiều ngành, nghề, với mức lương được xác định trước, không nhất thiết
phải giao kết hợp đồng lao động với bất kỳ người nào hội đủ điều kiện ghi trong
thông báo, bởi người đề nghị không nói rõ sẽ chấp nhận tuyển bất kỳ người nào
có đủ điều kiện hay chỉ tuyển những người có đủ điều kiện mà người đề nghị cảm
thấy hợp với mình trong quan hệ lao động[16][16].
Trái lại, nếu người sử dụng lao động thông báo trực tiếp cho một người xác
định, đề nghị người sau này giao kết hợp đồng lao động với các điều kiện được
ghi rõ trong đề nghị, thì đó là một đề nghị chắc chắn: một khi người nhận được
đề nghị chấp nhận giao kết, thì người đề nghị có nghĩa vụ giao kết.
- Ðề
nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, nghĩa là phải ghi nhận tất cả
các nội dung chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có thể được giao kết chỉ trên cơ
sở tuyên bố chấp nhận giao kết của người được đề nghị.
d. Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời
gian chưa có sự chấp nhận đề nghị.
Chừng
nào đề nghị giao kết hợp đồng chưa được chấp nhận, thì hợp đồng chưa được giao
kết. Tuy nhiên, theo BLDS Ðiều 396, khi một bên đề nghị giao kết hợp đồng có
nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì không được mời
người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về
lời đề nghị của mình. Ðiều luật có vẻ như chỉ áp dụng đối với những đề nghị đưa
ra trước một người xác định chứ không phải đề nghị gửi chung cho công chúng
(bởi vậy mới có thuật ngữ “người thứ ba”). Dẫu sao, có cơ sở để nói rằng nếu đề
nghị giao kết hợp đồng có ghi thời hạn trả lời, thì trong lúc thời hạn đó chưa
hết, người đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình, dù đó là đề nghị
đưa ra trước một người xác định hay được gửi chung cho công chúng qua các
phương tiện truyền thông công cộng, tờ bướm.
Luật
quy định thêm rằng khi người được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có
nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới
(BLDS Ðiều 399 khoản 3). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị được đưa ra trước không
còn hiệu lực.
Đề nghị mất hiệu lực. Theo BLDS Điều 399 khoản 1, đề nghị giao kết
hợp đồng chấm dứt trong trường hợp bên nhận được đề nghị trả lời không chấp
nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận hoặc đã hết thời hạn trả lời chấp nhận. Thực
ra, “hết thời hạn trả lời chấp nhận” là trường hợp bao trùm cả “chậm trả lời
chấp nhận”. Còn trong trường hợp bên được đề nghị trả lời không chấp nhận, mọi
chuyện sẽ suôn sẻ nếu bên được đề nghị xếp luôn vụ việc; trái lại, sẽ có rắc
rối phát sinh nếu bên được đề nghị lại muốn chấp nhận đề nghị (hoặc ít nhất,
muốn rút lại câu trả lời không chấp nhận để có thể tiếp tục suy nghĩ) trong
điều kiện thời hạn có hiệu lực của đề nghị, do người đề nghị đưa ra, vẫn chưa
hết.
Luật
chưa có quy định về số phận của lời đề nghị trong trường hợp người đề nghị chết
hoặc rơi vào tình trạng mất năng lực trong lúc thời gian trả lời chưa hết. Luật
cũng không có quy định cụ thể trong trường hợp thời hạn duy trì đề nghị chưa
hết mà người đề nghị đã lâm vào tình trạng phá sản.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
a. Khái niệm.
Chấp
nhận đề nghị là sự bày tỏ ý chí của người được đề nghị giao kết hợp đồng, trong
thời hạn trả lời, về việc chấp nhận lời đề nghị của người sau này mà không yêu
cầu sửa đổi nội dung đề nghị cũng không đặt ra điều kiện để chấp nhận đề nghị.
Chấp nhận đề nghị có thể được diễn đạt rõ ràng, bằng văn bản hoặc bằng miệng,
hay được thể hiện thành thái độ xử sự dứt khoát (tra thẻ điện thoại vào máy
điện thoại công cộng; lấy hàng trong ngăn hàng của siêu thị, cầm hàng trong tay
và đi đến quầy thu ngân).
Sự im lặng. - Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im
lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận ( diễn dịch BLDS Ðiều
403 khoản 2). Cần lưu ý câu chữ của luật: “nếu có thỏa thuận...”. Một người gửi
một đề nghị cho người khác và ghi rõ trong đề nghị rằng nếu người nhận đề nghị
im lặng, thì hết thời hạn trả lời, người này coi như chấp nhận giao kết hợp
đồng. Ðiều kiện đó hoàn toàn vô nghĩa nếu người nhận được đề nghị, trong thời
hạn trả lời, không xác nhận với người đề nghị về việc chấp nhận điều kiện. Một
người nhận được một đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời và báo cho người đề nghị
biết rằng nếu hết thời hạn đó mà người nhận đề nghị vẫn im lặng, thì coi như
người này chấp nhận đề nghị: trong trường hợp này, sự im lặng trở thành hình
thức diễn đạt sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo sự thỏa thuận giữa
hai bên liên quan.
Sự thỏa
thuận về giá trị của sự im lặng có thể được mặc nhiên đạt tới theo tập quán,
nhưng cũng có thể phải xuất phát từ sự bày tỏ ý chí của các bên liên quan (thoả
thuận trước hoặc quy ước về ý nghĩa của sự im lặng).
Chấp nhận không điều kiện. Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
phải không kèm theo một điều kiện nào do người được đề nghị đưa ra. Trong
trường hợp ngược lại, ta có một đề nghị mới về phía người được đề nghị. Đề nghị
mới trước hết mang ý nghĩa của một lời từ chối đối với đề nghị cũ và, do đó,
theo BLDS Điều 399 khoản 1, điểm a, có tác dụng làm mất hiệu lực của đề nghị cũ
(trong trường hợp đề nghị cũ chưa hết thời hạn hiệu lực do người người đề nghị
cũ ấn định).
Chấp nhận tự nguyện. Việc chấp nhận đề nghị phải hoàn toàn tự
nguyện. Tuy nhiên, người kinh doanh có thể bị chế tài trong trường hợp không
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của người có nhu cầu bình thường đối với
việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình, nhất là một khi việc không chấp nhận
đề nghị đó có thể dẫn đến tình trạng khủng hoảng trong lĩnh vực kinh doanh
đó.
Chấp nhận toàn bộ và chấp nhận một phần. Trên nguyên tắc, đề nghị giao kết hợp đồng
phải được chấp nhận toàn bộ. Nếu người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần đề
nghị, thì sự chấp nhận đó có giá trị như một lời đề nghị khác.
Một
cách ngoại lệ, nếu người đề nghị đưa ra một lời đề nghị bao gồm nhiều đề nghị
vừa mang tính độc lập vừa là các thành phần của một đề nghị tổng thể và cho
phép người được đề nghị lựa chọn giữa chấp nhận từng đề nghị độc lập và chấp
nhận đề nghị tổng thể, thì việc chấp nhận một hoặc nhiều đề nghị độc lập vẫn có
hiệu lực ràng buộc đốI với các bên.
b. Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng -
Việc chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, cũng như việc đề nghị, không ràng buộc người
bày tỏ ý chí chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thông tin cho người đối tác:
người chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời chấp nhận trong trường hợp người
đề nghị chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng, khác với đề nghị, chấp nhận đề
nghị, một khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ không thể được rút lại hay
thay đổi theo ý chí đơn phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp
nhận đề nghị được gửi trễ hạn và trở thành một đề nghị mới (Ðiều 397 khoản 1).
Sự chấp
nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời hạn trả lời có tác
dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về việc xác lập hợp đồng.
D. Quan hệ giữa sự ưng thuận và việc xác định
thời điểm, địa điểm giao kết hợp đồng
1. Ưng thuận và việc xác định thời điểm giao
kết hợp đồng
Nguyên tắc. Theo
BLDS Ðiều 403 khoản 1, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận giao kết hoặc khi
các bên đã thỏa thuận xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Ta có giải pháp
nguyên tắc: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm mà sự ưng thuận được ghi
nhận. Nguyên tắc này chịu khá nhiều ngoại lệ trong luật thực định Việt Nam: có
những hợp đồng mà luật buộc phải lập thành văn bản (hợp đồng ủy quyền, hợp đồng
cầm cố, thế chấp tài sản,...) thậm chí phải được chứng thực, chứng nhận (hợp
đồng thuê nhà ở, thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà ở,...); khi đó,
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm lập văn bản hoặc thời điểm chứng thực,
chứng nhận hợp đồng. Ta nói rằng trong mọi trường hợp, với việc chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, sự ưng thuận được ghi nhận về mặt nội dung; còn thời
điểm giao kết hợp đồng là thời điểm mà sự ưng thuận được ghi nhận về mặt hình
thức. Hình thức ghi nhận sự ưng thuận có thể do luật quy định (như khi luật đòi
hỏi một hợp đồng nào đó phải được giao kết bằng văn bản) mà cũng có thể là kết quả sự thỏa thuận giữa
các bên (như khi các bên thỏa thuận rằng hợp đồng phải được giao kết bằng văn
bản, dù luật không quy định).
Lợi ích. Việc
xác định thời điểm giao kết hợp đồng có nhiều lợi ích. Sau đây là hai lợi ích
đáng chú ý nhất.
- Nếu
hợp đồng thuộc loại có thời hạn, thì thời hạn bắt đầu từ ngày giao kết hợp
đồng;
- Việc
tính các thời hiệu của các quyền khởi kiện liên quan đến giá trị của hợp đồng
cũng căn cứ vào thời điểm giao kết hợp đồng đã được xác định
2. Ưng thuận và việc xác định địa điểm giao
kết hợp đồng -
Nguyên tắc. Theo
BLDS Ðiều 402, địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có
trụ sở của pháp nhân đã đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu không có thỏa
thuận khác. Với giải pháp đó, thì, trong trường hợp không có thỏa thuận đặc
biệt, sự ưng thuận không có liên quan đến địa điểm giao kết hợp đồng.
Thỏa
thuận về địa điểm giao kết hợp đồng thường được đưa ra trong đề nghị giao kết
hợp đồng: nếu người được đề nghị chấp nhận giao kết, thì coi như địa điểm giao
kết là nơi cư trú (nơi có trụ sở) của người đề nghị hoặc của người được đề nghị
hoặc một nơi nào đó khác được ghi rõ trong đề nghị.
Lợi ích. Lợi
ích của việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng không rõ nét lắm trong luật
Việt Nam. Một vài vấn đề xung đột trong tư pháp quốc tế được giải quyết dựa
theo luật của nước nơi giao kết hợp đồng.
E. Diễn đạt và trao đổi ý chí một cách gián tiếp: đại diện
Khái niệm. Sự
ưng thuận trong việc giao kết hợp đồng được ghi nhận trên cơ sở sự bày tỏ ý chí
của người kết ước, một cách trực tiếp hoặc thông qua vai trò của người đại
diện. Trong luật Việt Nam hiện hành, sự đại diện hình thành từ hai nguồn:
- Ðại
diện theo pháp luật, bao gồm (BLDS Ðiều 150): cha, mẹ đại diện cho con chưa
thành niên; người giám hộ đại diện cho người được giám hộ; người được tòa án
chỉ định đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người đứng đầu
pháp nhân đại diện cho pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhận hoặc theo
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; chủ hộ gia đình đại diện cho hộ;
tổ trưởng tổ hợp tác đại diện cho tổ; và những người khác theo quy định của
pháp luật.
- Ðại
diện theo ủy quyền (Ðiều 151), bao gồm những người được người được đại diện ủy
quyền để thay mình và dưới danh nghĩa của mình giao kết hợp đồng.
1. Ðiều kiện của việc đại diện.
Ðể hợp
đồng được giao kết một cách có giá trị thông qua vai trò của người đại diện,
thì người này phải có quyền đại diện và phải bày tỏ ý chí giao kết với tư cách
người đại diện.
Quyền đại diện. Quyền
đại diện có thể do luật xác định, như trong hầu hết trường hợp đại diện theo
luật: quyền của người giám hộ đại diện cho người được giám hộ; quyền của cha,
mẹ đại diện cho con chưa thành niên. Có khi quyền đại diện do luật thiết lập
nhưng nội dung quyền này lại do tòa án xác định, như trường hợp quyền của người đại diện cho người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự. Quyền đại diện theo ủy quyền phải phát sinh từ một hợp đồng
ủy quyền được giao kết phù hợp với pháp luật.
Người
đại diện chỉ được phép giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền đại diện
(Ðiều 153 khoản 3) và phải có trách nhiệm thông báo cho người đối tác về phạm
vi thẩm quyền đó (Ðiều 153 khoản 4). Nếu một người giao kết hợp đồng dưới danh
nghĩa của một người khác mà không có quyền đại diện cho người đó hoặc ngoài
phạm vi thẩm quyền đại diện cho người đó, thì, trên nguyên tắc, người “được đại
diện’ không bị ràng buộc bởi hợp đồng, nếu không muốn (Ðiều 154 khoản 1, Ðiều
155 khoản 1); người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện hoặc
vượt quá thẩm quyền đại diện, về phần mình, có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải
biết về việc không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện mà
vẫn giao dịch (Ðiều 154 khoản 2, Ðiều 155 khoản 2). Vậy có nghĩa rằng hợp đồng
giao kết với người đại diện không có thẩm quyền vượt quá thẩm quyền vẫn có giá
trị ràng buộc hai bên kết ước; tuy nhiên, những hợp đồng có liên quan đến các
tài sản đặc định của người “được đại diện” phải vô hiệu.
Ý chí đại diện. Người đại diện phải bày tỏ ý chí về việc giao
kết hợp đồng với tư cách người đại diện, nghĩa là người bày tỏ ý chí thay cho
một ngườI khác và dướI danh nghĩa của người sau này. Không làm việc đó, người
bày tỏ ý chí được coi như giao kết dưới danh nghĩa của chính mình.
Giao kết hợp đồng với chính mình. Theo BLDS Ðiều 155 khoản 5, người đại diện
không được “thực hiện” (đứng ra không
được xác lập, thực hiện) các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ
ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Cần phải hiểu điều luật như thế
nào ?
- Một
là, người đại diện không thể vừa đại diện cho một người vừa giao kết hợp đồng
với người mà mình đại diện: hợp đồng trong trường hợp này, suy cho cùng, chỉ có
một bên kết ước. Ðiều cấm này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp đại diện theo
luật, bởi người được đại diện theo luật là người không có khả năng nhận thức
hoặc, ít nhất, không có khả năng nhận thức về hành vi của mình, và do đó không
thể bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu về việc cho phép hay không cho phép người
được uỷ quyền giao kết những hợp đồng như thế. Riêng đối với trường hợp đại diện
theo ủy quyền, điều cấm hẳn chỉ mang tính chất của một quy tắc bổ khuyết[17][17]:
người được ủy quyền vẫn có thể đồng thời là người giao kết, nếu người ủy quyền
chấp nhận việc đó.
- Hai
là, người đại diện cho một người không thể giao kết hợp đồng với một người khác
mà mình cũng là người đại diện cho người đó. ví dụ: A đại diện cho B để giao
kết hợp đồng bán nhà của B, đồng thời cũng là người giám hộ của C; vậy A không
thể đại diện cho B giao kết hợp đồng bán nhà mà trong đó, C là người mua nhà.
Cần nhấn mạnh rằng điều cấm này chỉ được áp dụng trong trường hợp hợp đồng được
giao kết nằm trong thẩm quyền đại diện cho cả hai bên kết ước. Ví dụ: A được B
ủy quyền để bán nhà của B và được C ủy quyền để bán nhà của C; vậy, nếu C mua
nhà của B, thì A vẫn có quyền đại diện cho B để giao kết hợp đồng với C.
2. Hiệu lực của việc đại diện
Đại diện hoàn hảo. Gọi
là hoàn hảo, việc đại diện được xác lập phù hợp với các quy định của pháp luật
và người đại diện hành động trong khuôn khổ thẩm quyền đại diện của mình. Khi
đó, chính người được đại diện, chứ không phải người được đại diện, mới được coi
là người xác lập giao dịch và chịu trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh
từ giao dịch đó. Bởi vậy,
- Khi
cần đánh giá năng lực của người giao dịch trong trường hợp đại diện theo uỷ
quyền, người ta nhắm vào người được đại diện chứ không phải người đại diện;
- Chỉ
có người được đại diện là người thực sự có quyền và có nghĩa vụ; người đại diện
không phải chịu trách nhiệm gì và cũng không có quyền gì đối với người đối tác.
Vượt quá quyền hạn. Khi
người đại diện vượt quá quyền hạn của mình, thì giao dịch được xác lập do vượt
quá quyền hạn sẽ không ràng buộc người được đại diện. Tuy nhiên, khác với luật
của Pháp, luật Việt Nam không nói rằng giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu
trong trường hợp này. Theo BLDS Điều 155, người đã giao dịch với người đại diện
mà vượt quá thẩm quyền đại diện có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hoặc huỷ
bỏ giao dịch đối với phần thực hiện vượt quá thẩm quyền; nếu người này không sử
dụng quyền ấy, thì người đại diện vượt quá thẩm quyền phải chịu trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt
quá thẩm quyền.
II -
Ðối tượng của hợp đồng
Khái niệm. Ðối
tượng của hợp đồng là nội dung của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hay, đúng
hơn, là sự đáp ứng của người giao kết đối với người cùng giao kết trong khuôn
khổ thực hiện hợp đồng. Sự đáp ứng này, ta đã biết, thuộc một trong hai dạng:
chuyển giao một quyền hoặc làm hay không làm một việc. Với định nghĩa ấy, ta
không phân biệt giữa đối tượng của hợp đồng và đối tượng của nghĩa vụ phát sinh
từ hợp đồng: đối tượng của hợp đồng hay nghĩa vụ, suy cho cùng, đều quy về một
tài sản (đúng hơn là một quyền đối với một vật có giá trị tài sản) hoặc một
công việc phải làm hoặc không được làm.
1. Chuyển giao một quyền
Ðối
tượng của quyền có thể là một vật hữu hình (nhà, xe,...) hoặc một vật vô hình
(quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,...) hoặc một số tiền.
a. Vật
Dù hữu
hình hay vô hình, vật phải tồn tại, định giá được bằng tiền, lưu thông được,
xác định được (BLDS Ðiều 287).
Vật phải tồn tại. Nghĩa
là không phải là vật tưởng tượng. Vật không nhất thiết phải tồn tại ở thời điểm
giao kết hợp đồng: việc giao kết hợp đồng có thể được thực hiện đối với những
vật sẽ tồn tại trong tương lai, miễn là có hành vi có ý thức của con người,
được xác nhận ở thời điểm giao kết hợp đồng, nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của
vật . Ví dụ: hợp đồng chế biến sản phẩm theo đơn đặt hàng, hợp đồng sáng tác,
hợp đồng mua bán mùa màng chưa thu hoạch,...
Vật phải lưu thông được. Có những vật
bị cấm lưu thông một cách tuyệt đối trong luật Việt Nam: đất đai, tài
sản công, con người; có những vật chỉ được lưu thông trong những trường hợp
được luật dự liệu: mua bán chất ma túy như dược liệu giữa các cơ sở có thẩm
quyền về y dược;… Có những vật định giá
được bằng tiền nhưng lại gắn liền với nhân thân của một người và do đó, không
thể được chuyển nhượng cho người khác: quyền được cấp dưỡng, quyền được bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm bị xâm hại.
Vật phải được xác định. Không thể nói “mua bán một tài sản nào đó”
hoặc “mua bán một quyền nào đó”. Nếu là vật đặc định hoặc quyền vô hình, vật
hoặc quyền phải được mô tả như thế nào để phân biệt được với vật hoặc quyền
khác. Nếu là vật cùng loại, thì vật phải được xác định về chủng loại và về số
lượng. Ví dụ: bán 2000 tấn gạo Nàng Hương loại I; tivi hiệu X đời Y.
Tuy
nhiên, vật không nhất thiết được xác định rõ ở thời điểm giao kết hợp đồng. Các
bên có thể thoả thuận như thế nào để vật xác định được ở thời điểm thực hiện
nghĩa vụ. Ví dụ, bán tất cả trái chín vào ngày X tại vườn Y.
Vật phải thuộc về người chuyển giao. Thực ra, vật cũng có thể không thuộc về
người chuyển giao ở thời điểm giao kết hợp đồng: khi đó, hợp đồng mang tính
chất của một lời hứa. Ví dụ: A cam kết bán cho B 20 tấn gạo loại I; ở thời điểm
giao kết hợp đồng, A không có một hạt gạo nào trong tay; nhưng A có thể mua số
gạo đó và bán lại cho B trong thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhưng, chắc chắn một
người không thể chuyển giao một quyền đối với một tài sản đặc định trong khi
quyền đó đang thuộc về một người khác và người có quyền không hề có ý định
chuyển giao quyền này cho người cam kết chuyển giao mà không có quyền. Ví dụ: A
cam kết bán cho B căn nhà của C; ở thời điểm giao kết hợp đồng nhà thuộc quyền
sở hữu của C và C không có ý định bán; hợp đồng mua bán giữa A và B vô hiệu.
Nói rõ
hơn, những lời hứa chuyển giao quyền đối với một vật đặc định chỉ có giá trị
ràng buộc khi đó là những lời hứa có cơ sở để thực hiện. Các tiêu chí của việc
xác định thế nào là “có cơ sở để thực hiện” vẫn đang được định hình trong thực
tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam: một người có thể hứa bán một căn nhà chưa
thuộc quyền sở hữu của mình trong điều kiện chính mình đã giao kết xong hợp
đồng mua bán căn nhà đó tại cơ quan công chứng và đang xúc tiến thủ tục chuyển
quyền sở hữu; nhưng khó có thể nói rằng một người có thể bị ràng buộc vào nghĩa
vụ hứa bán một căn nhà trong khi chính người này chỉ đang trong quá trình
thương lượng với chủ sở hữu để đi tới
việc giao kết hợp đồng mua bán.
a. Số tiền
Khái niệm. Số
tiền, được ấn định như là đối tượng của nghĩa vụ trả tiền, còn được gọi, trong
ngôn ngữ thông dụng, là giá trị của hợp đồng. Tuỳ theo tính chất của hợp đồng,
số tiền ấy còn được đặt tên riêng: giá bán trong hợp đồng mua bán; giá thuê
trong hợp đồng thuê tài sản; nợ vay trong hợp đồng cho vay; tiền công trong hợp
đồng dịch vụ; tiền lương trong hợp đồng lao động;…
Ấn định số tiền. Giá
trị của hợp đồng phải được xác định hoặc xác định được. Giá trị đó có thể được
thể hiện bằng một con số được ghi nhận vào thời điểm giao kết hợp đồng, nhưng
cũng có thể chỉ bằng các tham số ở thời điểm giao kết hợp đồng và chỉ được xác
định rõ ràng bằng các con số ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp
giá trị của hợp đồng chỉ được thể hiện bằng các tham số, thì: 1. các tham số
này phải rõ ràng, đầy đủ, áp dụng được để tính ra giá trị của hợp đồng mà không
cần có thêm thoả thuận nào khác giữa các bên; 2. các tham số phải khách quan,
nghĩa là không chịu sự tác động của bên này hay bên kia trong quá trình hình
thành[18][18].
Không có đủ hai điều kiện đó, tham số
không được coi là hợp lệ.
Một
cách ngoại lệ, các hợp đồng dịch vụ có thể được giao kết một cách hữu hiệu dù
tiền công dịch vụ không được ấn định ở thời điểm giao kết hợp đồng: theo BLDS
Điều 527 khoản 1, nếu không thoả thuận về mức tiền công, thì mức tiền công là
mức trung bình đối với công việc cùng loại tại thời điểm và địa điểm hoàn thành
công việc.
2. Làm hoặc không làm một việc
Khái niệm. Công
việc phải làm hoặc việc không làm một việc phải là điều có thể thực hiện được
mà pháp luật không cấm và không trái với đạo đức xã hội. Loại nghĩa vụ này có
mối liên hệ với nhân thân của ngườI có nghĩa vụ; bởi vậy, như ta sẽ thấy, việc
thực hiện nghĩa vụ loại này trên nguyên tắc không thể đạt được bằng cách cưỡng
chế và thông thường, nghĩa vụ chấm dứt một khi ngườI có nghĩa vụ chết hoặc ở
trong tình trạng không thể thực hiện nghĩa vụ.
Tính có thể thực hiện được của nghĩa vụ. Nghĩa
vụ không thể thực hiện được là nghĩa vụ không có giá trị. Song thế nào là nghĩa
vụ không thể thực hiện được là vấn đề còn phải bàn trong luật Việt Nam. Chắc
chắn nghĩa vụ không thể được thực hiện đối với bất kỳ người nào là nghĩa vụ
không có giá trị. Nhưng có nghĩa vụ không thể thực hiện được đối với một người
mà có thể được thực hiện với một người khác: một người giao kết việc vận chuyển
một số hàng trong khi không có phương tiện vận tải trong tay; một người giao
kết việc thực hiện một dịch vụ trong khi không có khả năng thực hiện dịch vụ
đó. Trong luật thực định Việt Nam, loại nghĩa vụ thứ hai này hình như vẫn có
thể được xác lập một cách có giá trị: người cam kết sẽ phải trả chi phí và bồi
thường thiệt hại, theo yêu cầu của người có quyền, một khi người này tự mình
thực hiện hoặc nhờ người khác thực hiện công việc đó.
Tính hợp pháp của nghĩa vụ. Việc làm, đối tượng của nghĩa vụ, phải hợp
pháp, đặc biệt là không được trái với điều cấm của pháp luật hoặc đạo đức xã
hội. Không thể coi là hợp pháp hợp đồng thuê giết người, đánh người... Nói
chung, nghĩa vụ làm một việc hoặc không được làm một việc phải là một cam kết
thực hiện một hành vi phù hợp với pháp luật, với đạo đức và phải không có tác
dụng tước đi một hay nhiều quyền tự do cơ bản của con người trong xã hội có tổ
chức. Không thể coi là hợp pháp, nghĩa vụ kết hôn hoặc nghĩa vụ không kết hôn;
nghĩa vụ
3. Chế
tài
Đối
tượng không hợp pháp. Khái
niệm đối tượng không hợp pháp chỉ được xây dựng cho các trường hợp đối tượng
của nghĩa vụ là một vật hoặc làm hay không làm một việc[19][19].
Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, có vẻ như hợp đồng có đối tượng
không hợp pháp phải bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, áp
dụng BLDS Điều 137. Và nếu vậy, thì, một
là, bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu tuyên bồ vô hiệu đối với hợp đồng có
đối tượng không hợp pháp; hai là, quyền kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
không mất đi theo thời hiệu (BLDS Điều 145 khoản 2).
Không
có đối tượng. Hợp đồng gọi là không có đối tượng một khi
đối tượng không hề tồn tại. Cũng được đồng hoá với hợp đồng mà đối tượng không
hề tồn tại, các hợp đồng có đối tượng không được xác định hoặc không thể xác
định được. Ví dụ, bán một căn nhà theo giá thoả thuận sau; cho thuê một căn nhà
nào đó sẽ mua trong tương lai;…
Hợp đồng không có đối tượng là hợp đồng không
tồn tại và do đó không cần được tuyên bố vô hiệu. Đơn giản, không ai có trách
nhiệm thực hiện hợp đồng đó; trong trường hợp một bên thực hiện nghĩa vụ theo
hợp đồng đó, thì bên thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ đó ở trong tình trạng
được lợi không có căn cứ pháp luật.
III. Sự
trung thực trong giao kết
Hợp đồng giả tạo. Hợp
đồng giả tạo là sự thỏa thuận của các bên giao kết về việc che giấu ý chí thực
của các bên bằng một hợp đồng được giao kết nhưng không được thực hiện. Có ba
loại hợp đồng giả tạo:
- Hợp
đồng khống: đơn giản, là hợp đồng không bao giờ được thực hiện, không phải để
che giấu một hợp đồng khác, mà nhằm phục vụ cho một ý đồ không được bộc lộ của
các bên giao kết. Ví dụ: để đối phó với yêu cầu kê biên của các chủ nợ, một
người mắc nợ bán phần lớn tài sản của mình cho một người bạn và người mua không
trả tiền cũng không bao giờ tự coi mình là chủ sở hữu các tài sản ấy.
- Hợp
đồng che giấu: là hợp đồng được giao kết nhằm che giấu một hợp đồng khác cũng
được giao kết cùng một lúc. Ví dụ: giao kết việc mua bán để che giấu việc tặng
cho; người mua vẫn nhận tài sản, nhưng không trả tiền mua hoặc chỉ trả một số
tiền tượng trưng hoàn toàn không tương xứng với giá trị của tài sản mua.
- Hợp
đồng giấu mặt: là loại hợp đồng được giao kết thông qua vai trò của người khác.
Ví dụ: một công chức cao cấp mua một doanh nghiệp tư nhân, nhưng người giao kết
hợp đồng với tư cách người mua là anh ruột của công chức đó; người mua chỉ là
một con rối, bởi việc mua bán do người bán và công chức đó thảo luận và quyết
định.
Ðộng cơ
giao kết hợp đồng giả tạo có thể hợp pháp (như trong trường hợp tặng cho được
che giấu thành mua bán để tránh kích động lòng ganh tị giữa những người thân
thuộc), có thể không hợp pháp (như trong trường hợp giao kết hợp đồng mua bán
chỉ để tẩu tán tài sản).
Giá trị của hợp đồng giả tạo. Theo Ðiều 138 BLDS, khi các bên xác lập giao
dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, thì giao dịch
giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có giá trị, trừ trường hợp giao
dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của BLDS; nếu giao dịch được xác lập không
nhằm mục đích làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, thì giao dịch đó cũng
bị coi là vô hiệu. Một cách tổng quát, hợp đồng giả tạo không có giá trị trong
luật Việt Nam, bất kể động cơ giả tạo là hợp pháp hay không hợp pháp.
Phân
tiết III. Hình thức của hợp đồng
Nguyên tắc ưng thuận. Hình thức giao kết hợp đồng là sự bộc lộ ý
chí của các bên giao kết được ghi nhận theo một cách nào đó. Trên nguyên tắc,
các bên được tự do lựa chọn cách bộc lộ ý chí của mình. Theo BLDS Điều 400
khoản 1, hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Ta nói
rằng hợp đồng trong luật Việt Nam được giao kết theo nguyên tắc ưng thuận như
trong luật của Pháp. Nguyên tắc này chấp nhận một số ngoại lệ. Các ngoại lệ có
thể được xếp thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm một số quy định đặc biệt về hình
thức; nhóm thứ hai gồm các quy định đặc biệt về thủ tục.
I. Một
số quy định đặc biệt về hình thức
Hợp đồng trọng thức. Gọi là trọng thức một hợp đồng chỉ có thể có
giá trị một khi được lập theo một hình thức nhất định (thông thường là hình
thức viết, tức là dùng ngôn ngữ viết để mô tả nội dung thoả thuận). Ví dụ điển
hình của hợp đồng trọng thức là các hợp đồng mà theo luật phải được chứng nhận,
chứng thực, như hợp đồng mua bán nhà ở. Có trường hợp luật chỉ đòi hỏi việc
giao kết hợp đồng phải được ghi nhận bằng văn bản chứ không nhất thiết được
chứng nhận, chứng thực, như hợp đồng uỷ quyền.
Điều
quan trọng để tính trọng thức trở thành một điều kiện về hình thức của một hợp
đồng là phải có một điều luật quy định rành mạch về việc loại bỏ nguyên tắc ưng
thuận và áp đặt tính trọng thức đối với việc giao kết hợp đồng đó. Một số điều
luật trong BLDS nói rằng hợp đồng (nào đó) phải được lập thành văn bản nếu các bên
có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Thực ra, nếu pháp luật không quy
định, thì việc các bên có thoả thuận lập hợp đồng bằng văn bản không có tác
dụng áp đặt một điều kiện để cho hợp đồng có giá trị: nếu cuối cùng các bên lại
lập hợp đồng theo một hình thức khác, thì có nghĩa rằng họ đã có thoả thuận
khác.
Hợp đồng thực tại. Một
số hợp đồng, như đã biết, được giao kết bằng cách chuyển giao vật mà các bên
quan tâm. Việc chuyển giao đó cũng được coi như một điều kiện về hình thức của
hợp đồng: không có hình thức đó, sự thoả thuận đơn thuần giữa hai bên không có
hiệu lực ràng buộc. Ví dụ điển hình của loại hợp đồng thực tại là hợp đồng cho
mượn tài sản: nếu chỉ có thoả thuận về việc cho mượn mà không có việc chuyển
giao tài sản từ người cho mượn sang người mượn, thì hợp đồng chưa hình
thành.
II. Một
số quy định đặc biệt về thủ tục
Đăng ký. Đối
với một số tài sản có giá trị cao, Nhà nước tổ chức hệ thống đăng ký để đặt cơ
sở cho việc xác định lại lịch của người có quyền, đặc biệt là quyền sở hữu. Ví
dụ điển hình là các hệ thống đăng ký địa chính, tàu biển, máy bay, quyền sở hữu
công nghiệp, xe ô tô, xe máy,… Các hợp đồng có tác dụng chuyển các quyền đối
vật có đối tượng là các tài sản loại này phải được đăng ký và việc chuyển
quyền, theo luật Việt Nam hiện hành, được hoàn thành vào thờI điểm hoàn thành
thủ tục đăng ký đó.
Xin phép cơ quan có thẩm quyền. Có trường hợp do tính chất quan trọng của
tài sản giao dịch hoặc của bản thân giao dịch đối với kinh tế quốc dân hoặc đối
với trật tự công cộng, người làm luật đặt các giao dịch ấy dưới sự giám sát
chặt chẽ của Nhà nước thông qua một hệ thống các quy tắc về kiểm tra, xem xét
và cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ điển hình là các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong luật Việt Nam hiện hành. Trong các trường
hợp mà việc cho phép của cơ quan thẩm quyền là cần thiết, thì hợp đồng chỉ được
xúc tiến sau khi có sự cho phép đó.
III.
Chế tài
Vi phạm về hình thức hoặc thủ tục. Trong trường hợp hợp đồng không lập thành
văn bản hoặc không được chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc cho phép, dù luật
buộc phải lập văn bản, chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc cho phép, thì theo
yêu cầu của một nên hoặc của các bên, tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác quyết
định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng (Ðiều 139); quá
thời hạn đó mà không thực hiện, thì hợp đồng vô hiệu. Thực ra, quy định của
điều luật không được rõ nghĩa lắm: nếu các bên muốn tuân theo các quy định của
pháp luật về hình thức văn bản, thì các bên sẽ tự mình lập văn bản, yêu cầu
chứng nhận, xin phép, đăng ký mà không cần nhờ đến tòa án hoặc cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định; còn nếu có một bên không muốn, thì làm thế nào buộc được
bên đó ký vào văn bản hoặc ra trước cơ quan công chứng hay UBND để tiến hành
thủ tục chứng nhận hoặc chứng thực ?
Điều
đáng chú ý: điều luật không phân biệt giữa vi phạm về hình thức và vi phạm về
thủ tục. Bởi vậy, một hợp đồng mà theo luật phải được chứng nhận, sau đó được
đăng ký, sẽ vô hiệu nếu chỉ được chứng nhận mà không được đăng ký.
Quyền
kiện yêu cầu vô hiệu hoá một hợp đồng được xác lập không đúng hình thức không
mất đi do thời hiệu (BLDS Điều 145 khoản 2).
Hình thức chứng minh. Có những trường hợp điều kiện về hình thức
được áp đặt như một biện pháp bảo tồn bằng chứng về việc giao kết hợp đồng. Khi
đó, việc không tuân thủ điều kiện do pháp luật quy định chỉ khiến cho hợp đồng
không thể được chứng minh và, do đó, các quyền phát sinh từ hợp đồng không thể
được Nhà nước bảo vệ trong trường hợp các quyền ấy không được tôn trọng. Ví dụ,
trong trường hợp quy trình giao kết hợp đồng vận chuyển hành khách có ghi nhận
thủ tục xuất vé, thì vé là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng (BLDS Điều 531
khoản 2). Nếu hợp đồng trong trường hợp này đã được giao kết nhưng vé lại không
được xuất, thì hợp đồng vẫn có giá trị và vẫn được thi hành; nhưng trong trường
hợp có tranh chấp, thì Toà án sẽ không can thiệp, bởi đối với Toà án, sự tồn
tại của hợp đồng không thể được chứng minh. Giải pháp này, dẫu sao, không cứng
nhắc: có những trường hợp vé không xuất được do nguyên nhân bất khả kháng; có
trường hợp vé đã được xuất, nhưng sau đó lại mất cũng do nguyên nhân bất khả
kháng. Nói chung, nếu vì lý do gì đó mà một hợp đồng phải được chứng minh bằng
một phương tiện nào đó lại không thể được chứng minh bằng cách đó, thì phải có
thể được chứng minh bằng cách khác. Song, một cách hợp lý, việc chứng minh bằng
cách khác chỉ có thể được chấp nhận một khi việc không thể chứng minh được bằng
phương tiện do pháp luật quy định đã được lý giải thoả đáng.
Hình thức công bố. Trong
những trường hợp đặc thù, việc áp đặt một hình thức nào đó cho hợp đồng chỉ
nhằm mục đích làm cho hợp đồng được mọi người biết đến: nếu hợp đồng được xác
lập không theo hình thức đó, thì được coi như không tồn tại đối với mọi người
khác, nhưng vẫn có giá trị đối với hai bên giao kết. Biện pháp thông tin phổ
biến nhất về sự tồn tại của hợp đồng cho mọi người là biện pháp công bố dướI
hình thức đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật Việt Nam dường như
cũng có ghi nhận hình thức này đối với một số hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ, như cầm cố, thế chấp có đối tượng là các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu;
tuy nhiên, các quy định về ý nghĩa của hình thức này chưa được nhất quán. Ta biết
rằng theo BLDS Điều 139, hợp đồng mà theo quy định của pháp luật phải được đăng
ký sẽ vô hiệu nếu không được đăng ký sau một thời hạn do Toà án hoặc cơ quan
Nhà nước thẩm quyền khác ấn định. Nhưng mặt khác, theo Nghị định số 08/ NĐ-CP
ngày 10/3/2000 Điều 22 khoản 1, thì các giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị
đối với người thứ ba; điều đó có nghĩa rằng giao dịch bảo đảm không đăng ký thì
không có giá trị đối với người thứ ba, nhưng không nhất thiết cũng không có giá
trị đối với hai bên giao kết.
Hợp đồng thực tại. Các
hợp đồng thực tại coi như không tồn tại chừng nào việc chuyển giao vật mà các
bên quan tâm chưa được thực hiện. Luật không có quy định rõ ràng về việc chế
tài trong trường hợp các bên đã đạt được sự thoả thuận về hợp đồng thực tại (ví
dụ, người có tài sản đồng ý cho mượn và ngườI cần tài sản đồng ý mượn), nhưng
rồi lại không tiến hành giao nhận vật. Liệu người có lỗi trong việc không hoàn
thành việc giao nhận có phải chịu trách nhiệm ?
Tiết
III. Lý thuyết chung về sự vô hiệu của hợp đồng
I. Khái
niệm
Định nghĩa. Người
làm luật không định nghĩa hợp đồng vô hiệu mà chỉ xác định hệ quả của sự vô
hiệu: giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên từ thờI điểm xác lập (BLDS Điều 146 khoản 1). hợp đồng vô hiệu là hợp đồng
bị thủ tiêu về mặt pháp lý, xem như chưa bao giờ được xác lập.
Về tính
chất, vô hiệu hoá một hợp đồng là biện pháp chế tài dân sự. Việc giao kết một
hợp đồng không phù hợp với các quy định của pháp luật trong những trường hợp
đặc thù còn có thể dẫn đến các chế tài hành chính hoặc hình sự.
Các trường hợp khác của hợp đồng không có hiệu
lực. Hợp đồng có thể không có hiệu lực trong
những trường hợp đặc thù khác, dù không bị tuyên bố vô hiệu.
- Hợp
đồng bị huỷ bỏ. Hợp đồng bị huỷ bỏ là hợp đồng có giá trị ở thời điểm giao kết,
nhưng trở nên mất hiệu lực do có một sự kiện xảy ra sau đó. Ví dụ điển hình là
hợp đồng được giao kết với điều kiện huỷ bỏ.
- Hợp
đồng mất hiệu lực. Hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng được giao kết một cách hữu
hiệu, nhưng trong lúc đang được thực hiện thì lại mất một yếu tố cơ bản và do
đó không thể được thực hiện đến cùng hoặc thậm chí hoàn toàn không thể thực
hiện được. Ví dụ điển hình là hợp đồng bảo lãnh trong luật Việt Nam: hợp đồng
chấm dứt, nghĩa là sẽ không có ai thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trong trường hợp
nghĩa vụ chưa đến hạn phải thực hiện mà người bảo lãnh chết (BLDS Điều 375
khoản 4).
- Hợp
đồng vô hiệu cục bộ[20][20].
Gọi là vô hiệu cục bộ, hợp đồng vô hiệu đối với người này, nhưng vẫn có giá trị
đối với người khác. Ví dụ điển hình là hợp đồng cầm cố có đối tượng là một tài
sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu: không đăng ký, hợp đồng cầm cố không
có giá trị đối với người thứ ba, nhưng vẫn có giá trị đối với hai bên giao kết.
Hợp đồng vô hiệu cục bộ không hoàn toàn vô hiệu, mà chỉ có hiệu lực giới hạn.
Thực ra, khái niệm hợp đồng vô hiệu cục bộ chưa được xây dựng một cách có chủ
định trong luật viết hiện hành. Trong nhiều trường hợp, sự vô hiệu cục bộ được
ghi nhận một cách tình cờ trong logique của sự việc hơn là do ý chí đích thực
của người làm luật. Vợ và chồng thoả thuận về việc phân chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân; luật nói rằng việc phân chia tài sản chung nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản không được pháp luật thừa nhận. Giả thiết
được hình dung như sau: vợ chồng có nhiều chủ nợ chung và sau khi phân chia tài
sản chung, một trong số các chủ nợ kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu việc phân chia
trong khi các chủ nợ khác vẫn im lặng; yêu cầu của người khởi kiện được đáp ứng
và người này tiến hành tiếp một vụ kiện thứ hai yêu cầu buộc
II.
Thực hiện việc vô hiệu hoá hợp đồng
1. Các nguyên tắc
Căn cứ. Có
trường hợp luật nói rõ rằng một hợp đồng được giao kết không phù hợp vớI một
hoặc hoặc quy định nào đó của luật sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu. Nhưng cũng có
nhiều trường hợp người làm luật chỉ xây dựng những quy tắc mang tính mệnh lệnh
liên quan đến hình thức hoặc nội dung của hợp đồng, mà không dự kiến biện pháp
chế tài. Nếu cho rằng việc vô hiệu hoá một hợp đồng chỉ có thể được thực hiện
trong một trường hợp đặc thù một khi người làm luật có dự kiến biện pháp này
cho trường hợp đó, thì sẽ không có bao nhiêu hợp đồng có thể bị tuyên bố vô
hiệu trong luật Việt Nam hiện hành. Bởi vậy, cần thừa nhận nguyên tắc theo đó
một giao dịch được xác lập không phù hợp với những đòi hỏi của pháp luật sẽ có
thể bị tuyên bồ vô hiệu. Nếu thừa nhận nguyên tắc đó, thì vấn đề đối với luật
Việt Nam không phải là căn cứ vào đâu để tuyên bố vô hiệu một hợp đồng xác lập
không phù hợp với quy định của pháp luật trong điều kiện pháp luật không dự
kiến biện pháp chế tài, mà là:
1. Liệu
có những trường hợp nào mà người làm luật thực sự không muốn chế tài bằng biện
pháp vô hiệu hoá hợp đồng và do đó đã không quy định việc áp dụng biện pháp này
đối với những hợp đồng được giao kết không phù hợp với những điều kiện nhất
định ?
2. Làm
thế nào xác định thời hiệu của quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng trong
trường hợp việc vô hiệu không được pháp luật dự kiến ?
Vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Gọi
là vô hiệu tương đối sự vô hiệu được lý giải bằng sự cần thiết của việc bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân: hợp đồng được giao kết bởi một người
chưa thành niên cần bị vô hiệu hoá để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên;
hợp đồng được giao kết dưới sự đe doạ cần bị vô hiệu hoá để bảo vệ lợi ích của
ngườI bị đe doạ;…
Gọi là
vô hiệu tuyệt đối sự vô hiệu được hình dung như một biện pháp bảo vệ lợi ích
chung. Ví dụ điển hình là việc vô hiệu hoá một hợp đồng có nộI dung vi phạm
điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội.
Vô hiệu từng phần và vô hiệu toàn bộ. Gọi là vô hiệu từng phần, hợp đồng chỉ có
một phần vô hiệu và sự vô hiệu đó không để lại hậu quả đối với những phần còn
lại của hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng vô hiệu từng phần vẫn có giá trị và
được pháp luật bảo đảm việc thực hiện đối với những phần được giao kết phù hợp
với quy định của luật. Nếu không có phần nào có giá trị, thì hợp đồng vô hiệu
toàn bộ.
Sự cần thiết của một bản án. Dù là vô hiệu được dự kiến hoặc không được
dự kiến trong một văn bản luật, vô hiệu tương đối hay vô hiệu tuyệt đối, vô
hiệu từng phần hay toàn bộ, sự vô hiệu phải được ghi nhận trong một bản án. Cho
đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật, hợp đồng phải được suy đoán là có giá
trị và phải được tôn trọng. Điều này cũng có nghĩa rằng người nào yêu cầu vô
hiệu hoá một hợp đồng thì phải chứng minh được tính hiện thực của nguyên nhân
dẫn đến sự vô hiệu đó.
2. Quyền khởi kiện
a. Người có quyền khởi kiện.
Việc
xác định người có quyền khởi kiện được thực hiện tuỳ theo sự vô hiệu của hợp
đồng mang tính chất tương đối hay tuyệt đối.
Vô hiệu tương đối. Nếu
sự vô hiệu chỉ mang tính chất tương đối, thì quyền yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng
chỉ được thừa nhận cho người nào có lợi ích được bảo vệ một cách trực tiếp bằng
biện pháp đó. Trong một số trường hợp, người làm luật chỉ định rõ người có
quyền kiện: đại diện của người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi
(BLDS Điều 140 khoản 1); người bị nhầm lẫn, lừa dối hoặc đe doạ (Điều 141 khoản
1 và 142 khoản 1);… Nhưng trong khá nhiều trường hợp, người làm luật không chỉ
rõ ai là người có quyền đó[21][21];
khi ấy, thẩm phán có trách nhiệm xác định tư cách của người kiện dựa vào mối
quan hệ giữa người này và lợi ích được bảo vệ.
Vô hiệu tuyệt đối. Nếu
sự vô hiệu là tuyệt đối, thì bất kỳ người nào cũng có quyền kiện yêu cầu vô
hiệu hoá hợp đồng. Thực ra, khái niệm “bất kỳ người nào” phải được hiểu theo
nghĩa tương đối, bởi vì chính lý lẽ của quyền khởi kiện - bảo vệ lợi ích chung
- không hẳn là một khái niệm rất chung. Một người bán căn nhà ở thuộc quyền sở
hữu của mình cho một người khác mà không lập văn bản tại cơ quan công chứng;
một người hàng xóm phát hiện điều đó và kiện ra Toà án yêu cầu tuyên bố hợp đồng
vô hiệu. Khó có thể hình dung khả năng Toà án đáp ứng yêu cầu của người hàng
xóm, nếu người này không lý giải sự quan tâm của mình đối với việc vô hiệu hoá
hợp đồng bằng cách viện dẫn một lợi ích nào đó của mình mà có liên quan (dù là
gián tiếp) đến hợp đồng.
b. Tính hữu hiệu của quyền khởi kiện
Quyền
khởi kiện chỉ tỏ ra hữu hiệu chừng nào nguyên nhân của sự vô hiệu còn mang tính
hiện thực. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, nguyên nhân của sự vô
hiệu của một hợp đồng mất đi trong các trường hợp hợp đồng được xác nhận, được
hợp thức hoá hoặc thời hiệu khởi kiện đã hết.
Xác nhận hợp đồng. Xác
nhận hợp đồng là việc thừa nhận rằng hợp đồng thực ra đã được giao kết phù hợp
với các quy định của pháp luật và do đó, có giá trị. Việc làm cho một hợp đồng
bị xem là không hợp lệ trở nên hợp lệ bằng sự xác nhận, suy cho cùng, chỉ có
thể được thực hiện trong trường hợp tính hợp lệ hay không hợp lệ của hợp đồng
gắn liền với lợi ích của người có quyền xác nhận. Điều đó cũng có nghĩa rằng:
1. Việc
xác nhận hợp đồng chỉ có thể được chấp nhận trong trường hợp sự vô hiệu hoá hợp
đồng là sự vô hiệu tương đối: hợp đồng vô hiệu tuyệt đối, như đã biết, là hợp
đồng giao kết trái với lợi ích chung; việc hữu hiệu hoá hợp đồng vô hiệu tuyệt
đối bằng cách xác nhận sẽ đòi hỏi sự bày tỏ ý chí của tất cả những người có lợi
ích liên quan và đó tất nhiên là điều không thể thực hiện được.
2.
Người có quyền xác nhận hợp đồng chỉ có thể là người có quyền kiện yêu cầu vô
hiệu hoá hợp đồng.
Sự xác
nhận chỉ hữu hiệu một khi người có quyền xác nhận biết rõ nguyên nhân dẫn đến
sự vô hiệu của hợp đồng và bày tỏ ý chí chấp nhận thực hiện hợp đồng. Sự bày tỏ
ý chí có thể rành mạch (bằng một lời tuyên bố) hoặc mặc nhiện (bằng cách thực
hiện nghĩa vụ của mình).
Hợp thức hoá. Hợp
thức hoá hợp đồng là việc làm cho một hợp đồng có thể bị vô hiệu hoá trở nên
hữu hiệu bằng cách bổ sung cho hợp đồng những yếu tố cơ bản cần thiết mà trước
đó hợp đồng còn thiếu. Ví dụ điển hình là việc lập văn bản cho một hợp đồng mà
theo luật phải được giao kết bằng văn bản mới có giá trị, việc bổ túc giấy phép
của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp hợp đồng chỉ có thể được giao kết
vớI sự cho phép của cơ quan thẩm quyền. Việc hợp thức hoá có thể được thực hiện
cả đối với những hợp đồng có nguy cơ bị vô hiệu hoá một cách tuyệt đối.
Hết thời hiệu. Quyền
khởi kiện có thể bị mất đi do thời hiệu. Giải pháp này hiện chỉ được thừa nhận
rành mạch trong luật Việt nam cho một số trường hợp vô hiệu tương đối. Trong
các trường hợp vô hiệu tuyệt đối mà được luật ghi nhận rành mạch trong BLDS,
quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng không bị giới hạn về thời gian, như đã
biết. Do thiếu một quy định về đến thời hiệu được áp dụng một cách tổng quát
trong các trường hợp vô hiệu hoá hợp đồng, luật Việt Nam không giải quyết được
vấn đề thời hiệu cho các quyền kiện được chấp nhận trong những trường hợp luật
không dự kiến một cách rõ ràng việc vô hiệu hoá như một biện pháp chế tài đối
với các hợp đồng được xác lập không phù hợp với những điều kiện do pháp luật
đặt ra.
III. Hệ quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu không tồn tại. Theo BLDS Ðiều 146 khoản 1, giao dịch dân sự
vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác
lập. Các bên giao kết hợp đồng vô hiệu trở lại tình trạng như trước khi hợp
đồng được giao kết: hợp đồng coi như không tồn tại.
Nghĩa vụ giao trả tài sản. Nếu hợp đồng vô hiệu đã được thực hiện và đã
có tài sản được chuyển giao, một phần hoặc toàn bộ, thì các bên có nghĩa vụ hoàn
trả tài sản cho nhau (Ðiều 146 khoản 2) (ví dụ: người mua trả lại tài sản mua,
còn người bán trả lại số tiền mua). Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì
phải hoàn trả bằng tiền (cùng điều luật). Ðây chỉ là giải pháp nguyên tắc: có
trường hợp việc hoàn trả không thể thực hiện được dù bằng hiện vật hay tiền, ví
dụ: trên cơ sở hợp đồng thuê nhà ở, người thuê tiếp nhận và sử dụng nhà cho
thuê trong một thời gian, cho đến khi hợp đồng cho thuê bị tuyên bố vô hiệu; rõ
ràng người thuê theo một hợp đồng vô hiệu có nghĩa vụ trả lại nhà cho thuê và
có quyền yêu cầu giao lại số tiền thuê đã trả; nhưng làm thế nào người thuê trả
lại khoảng thời gian đã chiếm cứ và sử dụng căn nhà đó ?
Quyền lợi của người thứ ba. Trên
nguyên tắc, sự vô hiệu của hợp đồng có tác dụng thủ tiêu các quyền của người
thứ ba có nguồn gốc từ các quyền được xác lập theo hợp đồng vô hiệu: một người
mua một tài sản, sau đó bán tài sản mua cho một người mua lại; hợp đồng mua bán
trước bị tuyên bố vô hiệu; người mua lại tài sản phải trả lại tài sản cho người
mua trước để người này trả lại cho người bán trước. Có thể hình dung hệ quả của
sự vô hiệu của hợp đồng như một phản ứng dây chuyền: hợp đồng trước vô hiệu,
thì hợp đồng sau, hợp đồng sau nữa,... cũng vô hiệu.
Một
cách ngoại lệ, nếu người được chuyển giao tài sản ngay tình, thì, dù giao dịch
có tác dụng xác lập quyền đối với tài sản cho người chuyển giao bị tuyên bố vô
hiệu, giao dịch sau giữa người chuyển giao và người được chuyển giao vẫn có
hiệu lực, trừ trường hợp tài sản liên quan thuộc diện phải bị tịch thu hoặc
phải được trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó (BLDS Ðiều 147). Thế
nhưng, giải pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp giao dịch sau là giao dịch có
đền bù: một người mua tài sản rồi tặng tài sản mua cho người khác (ngay tình);
việc mua bán bị tuyên bố vô hiệu, người được tặng cho phải trả lại tài sản chứ
không được hưởng biện pháp bảo vệ của Ðiều 147 BLDS.
Tiết
IV. Hiệu lực của hợp đồng
I. Giải thích hợp đồng
Áp dụng lý thuyết về tính độc lập của ý chí. Việc
xác định các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có khi không đơn giản do câu chữ mà
các bên sử dụng để bày tỏ ý chí tỏ ra mập mờ, khó hiểu hoặc tối nghĩa. Trong
trường hợp đó, hợp đồng cần được giải thích. Nhưng việc giải thích được thực
hiện trên cơ sở nào ?
Luật
Việt Nam xác định rằng khi các điều khoản của hợp đồng không rõ ràng, thì việc
giải thích hợp đồng phải được thực hiện dựa vào ý chí chung của các bên giao
kết chứ không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng (BLDS Ðiều 408 khoản 1). Có thể
tin rằng đây là giải pháp nguyên tắc, dù luật viết còn có các quy định về
phương pháp giải thích hợp đồng trong các trường hợp có điều khoản hoặc ngôn từ
có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hoặc khó hiểu: các trường hợp này,
thực ra, chỉ là trường hợp hợp đồng có điều khoản không rõ ràng trong những
hoàn cảnh đặc thù. Nói cách khác, mỗi khi muốn giải thích hợp đồng, thì việc
trước tiên là xác định ý chí chung của các bên, sau đó, dựa vào ý chí chung để
phân tích nội dung của hợp đồng. Chỉ khi nào ý chí chung không thể được xác
định rõ, thì mới sử dụng các công cụ giải thích khác. Trong chừng mực nào đó,
các công cụ giải thích khác coi như có tác dụng xác định ý chí chung dựa vào sự
suy đoán.
II Hiệu lực bắt buộc của hợp đồng
Hợp đồng phải được thực hiện đúng và đầy đủ. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực
bắt buộc đối với các bên (BLDS Ðiều 404 khoản 1). Một khi được giao kết đúng
luật và phát sinh hiệu lực, hợp đồng phải được thực hiện theo các nguyên tắc
được ghi nhận tại Ðiều 409 BLDS: 1 - Thực hiện, một cách trung thực, theo tinh
thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; 2 - Ðúng đối
tượng, đúng chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa
thuận khác; 3 - Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hợp đồng thậm chí cao hơn luật
bổ khuyết: một khi các thỏa thuận có nội dung trái với luật bổ khuyết, thì thỏa
thuận thay luật bổ khuyết mà chi phối các mối quan hệ giữa các bên, như luật.
Trên
nguyên tắc, việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, hủy bỏ hợp đồng,
trong điều kiện không có vi phạm hợp đồng, chỉ có thể được thực hiện với sự
đồng ý của các bên giao kết (BLDS Ðiều 404 khoản 2). Một cách ngoại lệ, một vài
hợp đồng có thể chấm dứt theo ý chí đơn phương của bên giao kết mà trong điều
kiện không có vi phạm hợp đồng; nhưng việc chấm dứt phải được báo trước trong
thời hạn thích hợp (như hợp đồng ủy quyền: Ðiều 593).
III.- Hợp đồng dưới mắt người thứ ba
1. Hiệu
lực tương đối của hợp đồng
Ngưởi
có quyền và lợi ích liên quan. Nhắc
lại rằng việc thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (BLDS Ðiều 409 khoản
3). Ngoài quy định đó, luật viết hầu như không nói gì, một cách trực tiếp, về
hiệu lực của hợp đồng đối với người không tham gia giao kết. Nói chung, hợp
đồng không gây thiệt hại mà cũng không tạo ra lợi ích cho người thứ ba, trừ
trường hợp hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba. Tuy nhiên, có một loại
người thứ ba mà quyền và lợi ích có thể chịu ảnh hưởng của hiệu lực của hợp
đồng. Ta gọi đó là những người có quyền và lợi ích liên quan. Luật thực định
ghi nhận ba loại người có quyền và lợi ích liên quan đối với người giao kết hợp
đồng:
Người
có quyền tổng quát. là
người sẽ tiếp nhận toàn bộ hoặc một phần khối tài sản của người giao kết hợp
đồng (ví dụ: người thừa kế theo pháp luật). Người này sẽ gánh chịu những hệ quả
của các hợp đồng mà người giao kết xác lập, trừ những hợp đồng làm phát sinh
những quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của người giao kết (ví dụ: hợp
đồng ủy quyền).
Người
có quyền đặc định. Là
người sẽ tiếp nhận một tài sản đặc định thuộc khối tài sản của người giao kết.
Người này sẽ gánh chịu những hệ quả của các hợp đồng mà người giao kết xác lập,
liên quan đến tài sản đặc định đó.Ví dụ: người mua một bất động sản được thế
chấp sẽ trở thành người bảo lãnh đối vật của người bán dưới mặt người nhận thế
chấp bất động sản đó (BLDS Ðiều 358). Tuy nhiên, giải pháp này chỉ tỏ ra chắc
chắn trong trường hợp các quyền của người giao kết mang tính chất của quyền đối
vật. Những hợp đồng làm phát sinh quyền đối nhân, trên nguyên tắc, không thể
làm bận tâm người tiếp nhận tài sản. Ví dụ, một người giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ điện thoại; sau đó, người này bán căn nhà nơi có đặt máy điện thoại
rồi bỏ đi mà không thanh toán số nợ phí dịch vụ điện thoại đối với công ty điện
thoại.
Chủ nợ
không có bảo đảm của người giao kết. Là
người có quyền yêu cầu người giao kết thực hiện nghĩa vụ trả một số tiền, nhưng
lại không có một quyền gì đặc biệt đối với một hoặc nhiều tài sản đặc định của
người giao kết. Người này có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ tài
sản nào của người mắc nợ để thanh toán nghĩa vụ đến hạn. Bởi vậy, nếu người mắc
nợ có một tài sản mới trong khối tài sản của mình, thì chủ nợ càng được bảo đảm
trả nợ.
2.
Ngoại lệ đối với nguyên tắc về hiệu lực tương đối của hợp đồng
Luật hiện hành thừa nhận rằng trong một vài
trường hợp, hợp đồng phát sinh hiệu lực trực tiếp đối với người không tham gia
giao kết.
Hợp
đồng vì lợi ích của người thứ ba. Ðây
là hợp đồng mà các bên giao kết đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba
được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó (BLDS Ðiều 405 khoản 5). Ðây
cũng có thể là hợp đồng mà chỉ có một bên có nghĩa vụ (hợp đồng đơn vụ), nhưng
người hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó là người thứ ba chứ không
phải người giao kết. Ví dụ: tặng cho một tài sản với điều kiện nuôi dưỡng một
người không phải là người tặng cho; giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân mạng với
điều kiện khi người được bảo hiểm chết, thì tiền bồi thường bảo hiểm được giao
cho một người còn sống được chỉ định rõ; giao kết hợp đồng vận chuyển giữa
người bán hàng và người vận chuyển để giao hàng đã bán cho người mua.
Hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba,
một khi người thứ ba đồng ý hưởng lợi ích, không thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ,
nếu không được người thứ ba đồng ý (BLDS Ðiều 416).
Thực ra, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba
vẫn là hợp đồng giữa các bên giao kết và vẫn chịu sự chi phối của luật chung về
hợp đồng: các bên giao kết bị ràng buộc vào các mối quan hệ phát sinh từ hợp
đồng và nghĩa vụ được thực hiện vì lợi ích của người thứ ba vẫn tương ứng với
quyền yêu cầu của người giao kết, dù người sau này không được hưởng lợi ích từ
việc thực hiện quyền yêu cầu đó. Bởi vậy, người giao kết với người có nghĩa vụ
vì lợi ích của người thứ ba có quyền yêu cầu người sau này thực hiện nghĩa vụ
đó (BLDS Ðiều 414). Và nếu hợp đồng mang tính chất song vụ mà người giao kết
không thực hiện nghĩa vụ do lỗi của người có nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ
ba, thì người giao kết có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại
bằng cách áp dụng Ðiều 413 BLDS. Với phân tích này, ta hiểu thuật ngữ “hủy bỏ” dùng
tại Ðiều 416 BLDS như là “hủy bỏ quyền được hưởng lợi ích của người thứ ba” chứ
không phải hủy bỏ hợp đồng: một khi người thứ ba chấp nhận hưởng lợi ích từ hợp
đồng, thì các bên không có quyền hủy bỏ điều khoản cho phép người thứ ba được
hưởng lợi ích, còn hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ (toàn bộ) theo luật chung.
Ðiều đó cũng có nghĩa rằng: 1 - Chừng nào người thứ ba chưa tuyên bố chấp nhận
hưởng lợi ích từ hợp đồng, thì điều khoản hưởng lợi ích có thể bị hủy bỏ; 2 -
Việc hủy bỏ điều khoản cho người thứ ba hưởng lợi ích theo một hợp đồng đã được
giao kết phải là kết quả sự thỏa thuận giữa các bên giao kết chứ không phải của
ý chí của riêng một bên nào, cũng như việc sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào
khác trong hợp đồng đó.
Người thứ ba có quyền từ chối hưởng lợi ích từ
hợp đồng (BLDS Ðiều 415). Luật nói rằng nếu người thứ ba từ chối lợi ích theo
hợp đồng trước khi người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ
không phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng phải thông báo cho người có quyền và hợp
đồng được coi là bị hủy bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
(cùng điều luật); nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có
nghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ, thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và
bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ (cùng điều
luật). Áp dụng các quy định vừa nêu trong thực tiễn không phải là chuyện đơn
giản: một người tặng cho một người khác một tài sản với điều kiện người được
tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người thứ ba; nay người thứ ba từ
chối thụ hưởng nghĩa vụ nuôi dưỡng; vậy, tặng cho phải bị hủy bỏ và người được
tặng cho phải hoàn trả tài sản cho người tặng cho ? Giải pháp tỏ ra không hợp
lý lắm: bằng việc từ chối hưởng lợi ích, người thứ ba hủy bỏ hợp đồng mà mình không
phải là người giao kết, thậm chí có thể trái cả với ý chí của các bên giao kết.
Có lẽ, Ðiều 415 BLDS được xây dựng trong trường hợp sự từ chối của người thứ ba
được xem như điều kiện mà, theo sự thỏa thuận của các bên giao kết, nếu điều
kiện đó xảy ra, thì hợp đồng bị hủy bỏ. Sự thỏa thuận đó có thể được dự liệu
trong các quy định của luật bổ khuyết liên quan đến các hợp đồng cụ thể vì lợi
ích của người thứ ba hoặc phải được ghi nhận rành mạch trong hợp đồng. Nếu luật
không quy định và các bên không có thỏa thuận đặc biệt, thì sự từ chối của
người thứ ba chỉ có tác dụng làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện vì lợi ích của
người thứ ba chứ không thể dẫn đến việc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng có liên quan.
Ví dụ: một người bán giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa đã bán cho người
mua; người mua từ chối nhận hàng; người bán vẫn có quyền yêu cầu người vận
chuyển thực hiện hợp đồng vận chuyển nhằm hoàn tất hợp đồng mua bán, để có cơ
sở xác định trách nhiệm dân sự của người mua trong việc thực hiện hợp đồng mua
bán.
Trong quan hệ với người có nghĩa vụ vì lợi ích
của mình, người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu người này phải thực hiện
nghĩa vụ đối với mình (Ðiều 414). Và nếu đó không phải là lợi ích gắn liền với
nhân thân của người thứ ba đó, theo quy định của pháp luật hoặc theo ý chí của
người xác lập nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba, thì, khi người thứ ba chết
mà nghĩa vụ chưa đến hạn thực hiện, quyền trực tiếp yêu cầu này được chuyển
giao cho người thừa kế của người chết. Người có nghĩa vụ, về phần mình, có quyền
từ chối thực hiện nghĩa vụ, trong các trường hợp việc từ chối đó có cơ sở trong
việc áp dụng các quy định chung liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ
ba: ví dụ: người thuê vận chuyển không trả tiền vận chuyển, người vận chuyển có
quyền không giao hàng cho người nhận; người mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo
hiểm, người bảo hiểm có quyền từ chối trả tiền bồi thường bảo hiểm cho người
thứ ba.
Hợp
đồng tập thể. Ta đã biết rằng đây là hợp đồng ràng buộc
một nhóm người mà trong đó, có thể có người không chấp nhận giao kết. Hợp đồng
có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với mỗi người trong nhóm, kể cả đối với người
không đồng ý về việc giao kết hợp đồng đó.
Chuỗi
hợp đồng. Chuỗi hợp đồng là một tập hợp các hợp đồng
được giao kết vì một mục tiêu chung, hay đúng hơn nữa là có chung một đối
tượng. Ví dụ: người bán sỉ giao kết hợp đồng mua bán sỉ với người bán lẻ; người
bán lẻ lại giao kết hợp đồng mua bán lẻ với người tiêu dùng. Các hợp đồng mua
bán được giao kết một cách độc lập nhưng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lại
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, do các hợp đồng có cùng một đối tượng. Trong
trường hợp tài sản mua có khuyết tật, người tiêu dùng có quyền yêu cầu người
bán lẻ thực hiện nghĩa vụ bảo đảm chất lượng; người bán lẻ, về phần mình, cũng có
quyền yêu cầu người bán sỉ thực hiện nghĩa vụ bào đảm chất lượng đối với chính
tài sản đó. Người bán sỉ có thể là người trực tiếp chế tạo ra tài sản, nhưng
cũng có thể chỉ là người giao kết với nhà sản xuất hoặc chế tạo về việc phân
phối sản phẩm ra thị trường. Trong trường hợp thứ hai, người bán sỉ có quyền
yêu cầu người sản xuất hoặc chế tạo thực hiện nghĩa vụ bảo đảm chất luợng đối
với tài sản.
Suy cho cùng, do tất cả các hợp đồng trong
chuỗi hợp đồng mua bán nói trên đều có cùng một đối tượng mà quyền yêu cầu bảo
đảm chất lượng cũng chỉ có một đối tượng duy nhất, là tài sản mua có khuyết tật
đang thuộc quyền sở hữu của người tiêu dùng. Bởi vậy, để tiết kiệm chi phí, và
nhất là thời gian, án lệ của nhiều nước thừa nhận cho người tiêu dùng trong
trường hợp ghi nhận ở trên quyền khởi kiện trực tiếp đối với nhà sản xuất để
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Không chỉ có quyền khởi kiện trực tiếp nhà
sản xuất, người tiêu dùng còn có quyền yêu cầu bảo đảm chất lượng đối với bất
kỳ người bán nào trong chuỗi các hợp đồng đó. Giải pháp này cho phép bảo đảm
đến mức tối đa tính hữu hiệu của quyền khởi kiện trong trường hợp một số trong
những người có nghĩa vụ theo chuỗi hợp đồng ở trong tình trạng không có khả
năng thanh toán: người có quyền yêu cầu có thể lựa chọn người nào có khả năng
thanh toán tốt nhất để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ.
Lý thuyết về hiệu lực dây chuyền của các hợp
đồng trong một chuỗi, như mô tả ở trên, được áp dụng đối với tất cả các loại
hợp đồng, chứ không chỉ riêng trong trường hợp vừa nêu. Ta có các giai pháp
tương tự: nhà thầu con (B “phẩy”) có quyền kiện trực tiếp chủ công trình để yêu
cầu trả tiền thù lao; người được uỷ quyền lại có thể yêu cầu trực tiếp đối với
người uỷ quyền ban đầu về việc thực hiện các nghĩa vụ của người uỷ quyền.
Luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định nào
đặt cơ sở cho sự hình thành các chuỗi hợp đồng, mặc dù trong một số trường hợp
đặc thù, người làm luật đã thừa nhận khả năng giao kết các tiểu hợp đồng để
thực hiện một hợp đồng chính: người được uỷ quyền, người làm dịch vụ, người
thuê tài sản có thể uỷ quyền lại, giao một phần công việc, cho thuê lại, nếu
được người uỷ quyền, người thuê dịch vụ, người cho thuê đồng ý. Dẫu sao, mối
liên hệ dây chuyền giữa các bên trong các hợp đồng được giao kết trên cùng một
đối tượng là một thực tế phải được nhìn nhận. Nếu một thiệt hại gây ra cho một
bên giao kết một hợp đồng nào đó trong chuỗi có nguồn gốc từ lỗi của một bên
nào đó trong một hợp đồng trước đó, thì người bị thiệt hại phải có quyền truy tầm
cho đến tận người đó để yêu cầu nhận trách nhiệm.
Hợp
đồng liên kết. Hợp đồng liên kết là hợp đồng có đối tượng
riêng (được giao kết vì một mục tiêu riêng) nhưng lại có mối liên hệ mật thiết
với một hợp đồng khác cũng có đối tượng riêng, mật thiết đến mức, hợp đồng này
là điều kiện hoặc là động cơ của hợp đồng kia. Ví dụ điển hình là hợp đồng bảo
lãnh và hợp đồng vay được bảo đảm. Sự liên kết có thể có tác động hai chiều:
hiệu lực của hợp đồng này là điều kiện để phát sinh hiệu lực của hợp đồng kia
và ngược lại; nhưng cũng có thể chỉ có tác động một chiều.
Trong luật Việt Nam hiện hành, quan hệ hợp
đồng liên kết mà có tác động hai chiều chỉ phát sinh trên cơ sở thoả thuận giữa
các bên[22][22].
Luật viết chỉ ghi nhận một số trường hợp liên kết hợp đồng có tác động một
chiều. Ví dụ, nếu hợp đồng vay được bảo đảm mà bị tuyên bố vô hiệu, thì hợp
đồng bảo đảm cũng vô hiệu; nhưng sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm không nhất
thiết có ảnh hưởng đến giá trị của hợp đồng vay.
IV. Hiệu
lực của hợp đồng trong thời gian
Nguyên
tắc không mang tính mệnh lệnh. Theo
BLDS Ðiều 404 khoản 3, hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Những trường hợp pháp
luật quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm giao kết
hợp đồng không nhiều lắm trong luật thực định: hợp đồng tặng cho, hợp đồng gửi
giữ và, nói chung, các hợp đồng đồng thực tại đều chỉ có hiệu lực kể từ thời
điểm tài sản được chuyển giao, dù hợp đồng có thể được giao kết trước đó. Trái
lại việc thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời
điểm giao kết hợp đồng được luật cho phép rộng rãi: nguyên tắc thiết lập tại
Ðiều 404 khoản 3 trong khuôn khổ luật bổ khuyết chứ không phải luật mệnh lệnh.
V. Hợp
đồng có điều kiện
Ðiều
kiện hủy bỏ và điều kiện treo. Theo
Ðiều 299 BLDS, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện để thực hiện
nghĩa vụ, thì khi điều kiện phát sinh, người có nghĩa vụ phải thực hiện. Ở đây,
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng đã được xác định, điều luật chỉ có nghĩa
rằng việc hợp đồng thực sự có hay không có hiệu lực tại thời điểm đã được xác
định đó còn lệ thuộc vào một điều kiện, hay rõ hơn, vào việc có hay không có
xảy ra một sự việc trong tương lai. Có hai khả năng:
- Hoặc hai bên thỏa thuận rằng nếu điều kiện
phát sinh, thì hợp đồng coi như có hiệu lực (và làm phát sinh nghĩa vụ) tại thời điểm đã được xác định đó, dù thời
điểm đó đã qua.
- Hoặc, hai bên thỏa thuận rằng nếu điều kiện
phát sinh, thì hợp đồng không có hiệu lực (và không làm phát sinh nghĩa vụ) tại
thời điểm đã được xác định đó
Ðược giao kết theo điều kiện thứ nhất, hợp
đồng được gọi là có điều kiện treo; được giao kết theo điều kiện thứ hai, hợp
đồng được gọi là có điều kiện hủy bỏ.
Điều
kiện của điều kiện. Dù là
điều kiện treo hay điều kiện huỷ bỏ, việc áp đặt điều kiện chỉ tỏ ra hợp lý một
khi nội dung của điều kiện, tức là sự kiện được dự kiến sẽ phát sinh, phải là
chuyện của tương lai, không chắc chắn, không tuỳ thuộc vào ý chí của bên có
nghĩa vụ và nhất là không được trái pháp
luật.
Chuyện của tương lai, sự kiện dự kiến phải
chưa xảy ra ở thời điểm giao kết hợp đồng. Không chắc chắn, bởi vì nếu sự kiện
dự kiến chắc chắn xảy ra hoặc chắc chắn không xảy ra, thì việc áp đặt điều kiện
trở nên vô nghĩa.
Điều kiện “không tuỳ thuộc vào ý chí của bên
có nghĩa vụ” phức tạp hơn. Trước hết, đúng là vô nghĩa, lời cam kết theo đó
“tôi sẽ thực hiện nghĩa vụ với điều kiện tôi muốn thực hiện”[23][23].
Nhưng trên thực tế, có những trường hợp điều kiện lệ thuộc chỉ một phần vào ý
chí của người có nghĩa vụ, một phần vào ý chí của người khác hoặc, nói chung,
vào hoàn cảnh khách quan. Mặt khác, nếu điều kiện treo được dự kiến trong một
hợp đồng song vụ, thì việc điều kiện ấy lệ thuộc vào ý chí của người có nghĩa
vụ có vẻ như không ảnh hưởng đến hiệu lực của nó, bởi ngườI có nghĩa vụ trong
hợp đồng song vụ cũng đồng thời là người có quyền yêu cầu.
1. Hợp đồng có điều kiện treo
Sự hình
thành điều kiện. Ví dụ,
một người mua một tài sản nhưng với điều kiện vay được tiền để trả cho người
bán; hợp đồng mua bán đã được giao kết xong, nhưng người bán chưa giao tài sản
và người mua chưa trả tiền. Nếu người mua vay được tiền, thì hợp đồng mua bán
có hiệu lực lùi trở lại ngày giao kết và các nghĩa vụ của các bên coi như phát
sinh từ ngày đó. Ðiều kiện treo ở đây là: người mua vay được tiền để thanh toán
giá mua bán.
Trong
thời gian chờ điều kiện treo phát sinh. Hợp
đồng mua bán trong ví dụ trên chưa có hiệu lực và các bên không có nghĩa vụ gì
đối với nhau. Ðiều đó có nghĩa rằng người bán vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản
bán và, do đó, có quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó. Song, quyền sở hữu của
người bán lệ thuộc vào điều kiện treo nêu trên và có thể được chuyển một cách
bắt buộc cho người khác (người mua) trong những hoàn cảnh được luật dự liệu;
bởi vậy, người thứ ba biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản khó có thể chấp
nhận giao dịch trên tài sản đó trong thời gian chờ đợi việc xảy ra điều kiện.
Ðiều
kiện treo phát sinh. Nếu
người mua vay được tiền, thì hợp đồng mua bán trong ví dụ trên có hiệu lực lùi
lại vào thời điểm giao kết: chính từ thời điểm đó mà người bán có nghĩa vụ
chuyển quyền sở hữu, giao vật, bảo đảm tì vết,... và người mua có nghĩa vụ trả
tiền, nhận vật. Các giao dịch do người mua xác lập trên tài sản mua, nếu có, sẽ
được khẳng định giá trị; còn các giao dịch do người bán xác lập giữa thời điểm
giao kết hợp đồng mua bán có điều kiện và thời điểm phát sinh điều kiện treo,
sẽ bị hủy bỏ. Các hậu quả của giải pháp vừa nêu khá nặng nề đối với người bán
trong điều kiện luật không phân biệt các giao dịch được xác lập là giao dịch
quản trị hay giao dịch định đoạt: người mua tài sản (trong vụ mua bán giao kết
lần thứ hai) không có quyền sở hữu, người thuê tài sản không có quyền thuê,...
Ðiều
kiện treo không phát sinh. Nếu
người mua trong ví dụ trên không vay được tiền, thì hợp đồng mua bán không có
hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các quyền và nghĩa vụ của người thứ ba phát
sinh từ các giao dịch do người bán xác lập, giữa thời điểm giao kết hợp đồng
mua bán có điều kiện và thời điểm xác nhận việc không phát sinh điều kiện treo,
được củng cố; ngược lại các giao dịch do người mua xác lập, trở nên không có
đối tượng, sẽ vô hiệu.
Tuy nhiên, khó có thể coi như điều kiện treo
không phát sinh, việc người mua chủ động từ chối vay tiền, dù các điều kiện cho
vay hoàn toàn thỏa đáng. Nói cách khác, nếu điều kiện treo không phát sinh về
mặt vật chất do hành vi chủ động của một bên giao kết, thì, một cách hợp lý,
nên cho rằng điều kiện treo đã phát sinh về mặt pháp lý và hợp đồng, như vậy,
sẽ có hiệu lực.
2. Hợp
đồng có điều kiện hủy bỏ
Sự hình
thành điều kiện. Ví dụ, một người tặng cho một người khác một
tài sản với điều kiện người được tặng cho phải đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt
nghiệp đại học; tài sản được giao ngay cho người được tặng cho, nhưng nếu điều
kiện vừa nêu không xảy ra, thì tài sản sẽ được lấy lại. Ðiều kiện hủy bỏ hợp
đồng ở đây là: người được tặng cho không đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt nghiệp
đại học.
Trong
thời gian chờ điều kiện hủy bỏ phát sinh. Hợp
đồng tặng cho trong ví dụ trên được thực hiện và phát sinh tất cả hiệu lực theo
quy định của luật: người được tặng cho trở thành chủ sở hữu đối với tài sản
tặng cho sau khi nhận tài sản và có quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó. Tuy
nhiên, do việc chuyển quyền sở hữu lệ thuộc vào điều kiện hủy bỏ chưa xảy ra,
tài sản tặng cho có thể trở thành đối tượng của một nghĩa vụ hoàn trả. Bởi vậy,
khó có thể hình dung rằng người thứ ba biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản
lại chấp nhận cùng với người được tặng cho xác lập các giao dịch có tính chất
định đoạt tài sản (dù là định đoạt có điều kiện, như cầm cố, thế chấp). Nói
cách khác, chừng nào điều kiện hủy bỏ chưa xảy ra, thì tư cách chủ sở hữu của
người được tặng cho không trọn vẹn, hay đúng hơn, là một tư cách có điều kiện,
một tư cách mong manh do sự tiềm ẩn của nguy cơ huỷ bỏ.
Ðiều
kiện hủy bỏ phát sinh. Nếu
điều kiện hủy bỏ phát sinh, thì hợp đồng bị hủy bỏ, nghĩa là không có hiệu lực
tại thời điểm đã được xác định. Nếu các bên đã chuyển giao tài sản cho nhau,
thì có nghĩa vụ hoàn trả những tài sản đã nhận Trong ví dụ trên, người được
tặng cho mà không đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt nghiệp đại học coi như chưa
bao giờ là chủ sở hữu tài sản tặng cho; bởi vậy, các giao dịch mà người này xác
lập với người thứ ba trên tài sản tặng cho cũng bị hủy bỏ.
|
I. Khái niệm
Hành vi dân sự đơn phương và cam kết đơn
phương. Hành vi pháp lý (còn gọi là giao dịch) là sự
bày tỏ ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý.
Hành vi dân sự đơn phương làm phát sinh nghĩa vụ là hành
vi pháp lý được chủ thể của quan hệ pháp luật thực hiện với ý
thức rằng bằng hành vi đó, chủ thể của quan hệ pháp luật cam kết đáp ứng một
yêu cầu của một chủ thể khác của quan hệ pháp luật. Với định nghĩa đó, ta có
thể gọi hành vi dân sự đơn phương là cam kết đơn phương. Nghĩa vụ phát sinh từ
ngày cam kết được ghi nhận dưới một hình thức nhất định chứ không phải từ ngày
cam kết được chấp nhận, nhưng, tất nhiên, chỉ được thực hiện một khi cam kết
được chấp nhận, nghĩa là khi xác định được lai lịch của người có quyền yêu cầu.
Có
những hành vi được thực hiện một cách có ý thức nhưng người thực hiện lại không
hề đưa ra một cam kết nào với bất kỳ ai. Nghĩa vụ phát sinh trong trường hợp
này, nếu có, hoàn toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của đương sự. Khi đó, hành vi
được thực hiện không mang tính chất của hành vi dân sự đơn phương mà có ý nghĩa
của một sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ. Ví dụ: một người cố ý hủy hoại
tài sản của một người khác có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người có tài
sản; nhưng không thể nói rằng người gây thiệt hại mong muốn xác lập nghĩa vụ
đó. Ví dụ khác: một người chiếm hữu tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Theo
BLDS Ðiều 609, nghĩa vụ trong ví dụ vừa nêu được xác lập trên cơ sở trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng, một loại sự kiện pháp lý sẽ được phân tích ở phần kế
tiếp.
Cam kết đơn phương - căn cứ xác lập nghĩa vụ. Cam kết đơn phương được thừa nhận trong luật
Việt Nam như là một căn cứ xác lập nghĩa vụ, với sự dè dặt. Các nghĩa vụ có
nguồn gốc từ ý chí, trên nguyên tắc, phát sinh do hiệu lực của hợp đồng, tức là
do sự thoả thuận giữa người cam kết thực hiện nghĩa vụ và người cam kết thụ
hưởng nghĩa vụ đó. Các cam kết đơn phương được coi như ngoại lệ của nguyên tắc
đó. Cho đến nay, người làm luật Việt Nam chỉ ghi nhận hai ngoại lệ đích thực
cho ba trường hợp - đề nghị giao kết hợp đồng, hứa thưởng và thi có giải – và
với một số điều kiện. Trong một vài trường hợp khác, nghĩa vụ có vẻ như cũng
phát sinh từ cam kết đơn phương nhưng thực ra lại có nguồn gốc từ một hợp đồng.
Về
phương diện khoa học luật, vấn đề đặt ra là: trong những trường hợp nào việc
tìm hiểu xem liệu cam kết đơn phương có là căn cứ xác lập nghĩa vụ tỏ ra có lợi
ích thực tiễn ?
II. Các
trường hợp tổng quát
Trường
hợp thứ nhất: người thụ hưởng cam kết không chấp nhận cam kết. Vậy có nghĩa rằng cam kết không có người thụ
hưởng. Không thể có quan hệ nghĩa vụ trong trường hợp này, do không có đủ chủ
thể của quan hệ. Điều cần nhấn mạnh là: việc người thụ hưởng cam kết chấp nhận
cam kết phải xuất phát từ sự tự nguyện của người này; tự một cam kết thực hiện
một nghĩa vụ đối với một người không thể ràng buộc người này một cách đương
nhiên vào vị trí của người có quyền yêu cầu.
Trường
hợp thứ hai: người thụ hưởng cam kết chấp nhận cam kết trong điều kiện cam kết
không được rút lại. Khi
đó ý chí của người thụ hưởng cam kết gặp gỡ ý chí của người cam kết: quan hệ
nghĩa vụ theo hợp đồng hình thành. Điều đó cũng có nghĩa rằng nghĩa vụ phát
sinh không phải từ cam kết đơn phương.
Trường
hợp thứ ba: người thụ hưởng cam kết chấp nhận cam kết trong điều kiện cam kết
đã bị rút lại. Chính trong trường hợp này mà cam kết đơn
phương bộc lộ tính chất của một trong những căn cứ xác lập nghĩa vụ. Vấn đề đặt
ra là: liệu khi đưa ra cam kết, người cam kết có bị ràng buộc ngay cả trong lúc
người thụ hưởng chưa chấp nhận cam kết ? Nếu câu trả lời là khẳng định, thì
việc người cam kết rút lại cam kết có thể không hợp pháp trong những trường hợp
đặc thù; nói cách khác, người cam kết có thể trở thành người có nghĩa vụ trong
những trường hợp đặc thù ngay cả khi chưa có ai chấp nhận thụ hưởng cam kết của mình.
Một
cách hợp lý, mọi quan hệ nghĩa vụ đều chỉ có ý nghĩa một khi cả chủ thể có và
chủ thể nợ đều hiện hữu và có ý thức đấy đủ về vị trí của mình trong quan hệ
đó. Bởi vậy, trong trường hợp nghĩa vụ được xác lập bằng cam kết đơn phương,
chỉ khi nào có người xuất hiện tự xưng là chủ thể có bằng cách chấp nhận cam
kết, thì người ta mới đặt lại vấn đề liệu người cam kết có là chủ thể nợ ngay
từ trước khi cam kết đó được chấp nhận. Trong điều kiện đó, nghĩa vụ xác lập
bằng cam kết đơn phương thường chỉ được đề cập trong khuôn khổ một vụ tranh
chấp trước Toà án.
III.
Các trường hợp đặc thù
Ðề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả lời. Nếu đề nghị giao kết
hợp đồng có ghi nhận thời hạn trả lời và người được đề
nghị đã nhận được đề nghị, thì người đề nghị có nghĩa vụ duy trì đề nghị trong
thời hạn trả lời. Người đề nghị tự ràng buộc vào nghĩa vụ đó mà không cần giao
kết một hợp đồng về thời hạn trả lời. Ở Pháp, học thuyết pháp lý nói rằng đề
nghị giao kết hợp đồng, một khi đến tay người được đề nghị và cho đến khi người
đề nghị trả lời hoặc đến khi hết thời hạn trả lời, có hiệu lực như một tiền khế
ước (avant-contrat) hay, đúng hơn, như một hợp đồng về thời hạn trả lời. Song,
giải pháp này chỉ hợp lý trong điều kiện luật thừa nhận rằng việc nhận đề nghị
và thái độ im lặng của người nhận đề nghị được hiểu như là sự chấp nhận mặc
nhiên đối với việc giao kết hợp đồng về thời hạn trả lời. Luật Việt Nam hiện hành
không thừa nhận điều này; bởi vậy, đề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả
lời có thể coi như một cam kết đơn phương và là nguồn của nghĩa vụ.
Thế nào
là “chịu trách nhiệm về đề nghị của mình” ? Theo BLDS Ðiều 398, bên đề nghị có
thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau đây: 1 - Bên được đề
nghị chưa nhận được đề nghị; 2 - Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi
hoặc rút lại đề nghị. Tổng hợp các quy định liên quan của luật viết, ta có các
quy tắc ẩn sau đây đặt cơ sở cho câu trả lời đối với câu hỏi vừa nêu:
- Dù đề
nghị có ghi rõ thời hạn trả lời hoặc có hay không có nêu rõ điều kiện được thay
đổi hoặc rút lại đề nghị , người đề nghị vẫn có quyền thay đổi hoặc rút lại đề
nghị, một khi người được đề nghị chưa nhận được đề nghị. Ta còn lại vấn đề xác
định tiêu chí của việc nhận đề nghị trong trường hợp đề nghị được gửi chung cho
công chúng.
- Một
khi người được đề nghị đã nhận được đề nghị, thì người đề nghị không có quyền
rút lại hoặc thay đổi đề nghị chừng nào thời hạn trả lời chưa hết hoặc chỉ có
quyền rút lại hay thay đổi đề nghị trong thời hạn trả lời theo đúng các điều
kiện liên quan đã được ghi rõ trong đề nghị.
Nếu đề
nghị giao kết hợp đồng không ghi rõ thời hạn trả lời, thì có hai giải pháp:
hoặc người đề nghị được quyền thay đổi hoặc rút lại đề nghị bất kỳ lúc nào, bất
kể người được đề nghị đã nhận được hay chưa nhận được đề nghị; hoặc thời hạn
trả lời được hiểu ngầm theo tập quán giao dịch và từ khi người được đề nghị
nhận được đề nghị đến khi hết thời hạn đó, người đề nghị không được quyền rút
lại hoặc thay đổi đề nghị của mình. Luật viết, về phần mình, chỉ xây dựng giải
pháp cho một trường hợp đặc thù: nếu đề nghị không ghi rõ thời hạn trả lời và
khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp nói chuyện qua
điện thoại và các phương tiện khác, thì bên được đề nghị phải trả lời ngay
(BLDS Ðiều 397 khoản 1). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị trong trường hợp này
đương nhiên hết hiệu lực nếu, sau cuộc giao tiếp trực tiếp, người đề nghị chưa
nhận được trả lời của người được đề nghị. Có lẽ trong trường hợp đề nghị không
ghi nhận thời hạn trả lời và giữa các bên cũng không có sự tiếp xúc trực tiếp,
thì thời hạn trả lời được xác định theo tập quán: việc thừa nhận cho một người
đề nghị mà không ra thời hạn trả lời quyền rút lại đề nghị không phải là một
giải pháp tốt.
Hứa thưởng và thi có giải. Hứa thưởng và thi
có giải là những trường hợp đặc biệt của đề nghị giao kết hợp đồng, được gửi cho công chúng.
Luật
nói rằng khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc, thì người hứa thưởng có
quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình (BLDS Ðiều 596). Vậy, một khi bắt
đầu thời hạn thực hiện công việc, thì người hứa thưởng có nghĩa vụ duy trì lời
hứa của mình cho đến khi thời hạn này kết thúc. Có thể tin rằng giải pháp tương
tự cũng được áp dụng đối với thi có giải. Ta nói rằng người hứa thưởng, người
tổ chức thi có giải bị ràng buộc bởi cam kết đơn phương của mình trong thời hạn
có hiệu lực của đề nghị hứa thưởng; hết thời hạn đó, người hứa thưởng không có
trách nhiệm duy trì đề nghị của mình nữa.
Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Người có nghĩa vụ
vì lợi ích của người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba, dù giữa hai bên không hề có một hợp đồng
nào. Tuy nhiên, không thể nói rằng nghĩa vụ trong trường hợp này phát sinh từ
một cam kết đơn phương: nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba có nguồn gốc từ
hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba.
Chứng từ có giá và giao dịch được. Người có nghĩa vụ
thanh toán một chứng từ có giá và giao dịch được không xác lập một cam kết thanh toán đơn phương: nếu người
yêu cầu thanh toán không phải là người đầu tiên có quyền yêu cầu, thì vẫn có
thể kết luận rằng việc phát hành chứng từ có giá được thực hiện trong khuôn khổ
một hợp đồng giữa người phát hành và người đầu tiên có quyền yêu cầu, còn việc
người yêu cầu thành toán không phải là người đầu tiên có quyền yêu cầu chỉ là
hệ quả của các giao dịch chuyển quyền yêu cầu được cho phép trong luật thực
định.
IV. Các
điều kiện chung để một cam kết đơn phương trở thành căn cứ xác lập nghĩa vụ
Nhận
định. Đề nghị giao kết hợp đồng, hứa thưởng và thi
có giải là những trường hợp đặc thù của cam kết đơn phương như là căn cứ xác
lập nghĩa vụ. Trong thực tiễn giao dịch còn có những cam kết đơn phương khác
chưa được luật viết ghi nhận. Tất nhiên, là sản phẩm của ý chí, nghĩa vụ xác
lập bằng cam kết đơn phương, cũng như nghĩa vụ xác lập theo hợp đồng, chỉ hữu
hiệu một khi người cam kết có năng lực[24][24]
và đã bày tỏ ý chí một cách hoàn toàn tự nguyện (không bị nhầm lẫn, bị đe doạ
hoặc bị lừa dối); nhưng mặt khác, cam kết đơn phương, do chính đặc điểm của nó
so với hợp đồng, còn chịu sự chi phối của những quy định riêng về các điều kiện
cần hội đủ để có giá trị.
Bằng
phương pháp phân tích quy nạp, từ các kết quả phân tích các quy định liên quan
đến đề nghị giao kết hợp đồng và hứa thưởng, ta rút ra được những điều kiện
chung mà một cam kết đơn phương bất kỳ phải thoả mãn để có thể phát sinh hiệu
lực của một căn cứ xác lập nghĩa vụ: cam kết phải chắc chắn và phải có thời hạn.
Tính
chắc chắn của cam kết. Để có
được hiệu lực ràng buộc, điều tiên quyết là cam kết đơn phương phải thể hiện
một cách rõ ràng ý chí nghiêm túc và có cân nhắc của người cam kết về việc mong
muốn tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ xác định. Một người chồng giàu có, khi
ly hôn, bị Toà án buộc phải cấp dưỡng cho người vợ với một mức khá cao, đã hào
phóng cam kết sẽ không yêu cầu giảm mức cấp dưỡng ngoài những trường hợp được
pháp luật dự kiến; một cam kết như thế, dù chỉ có tính chất của một cử chỉ quân
tử, đủ chắc chắn về mặt pháp lý để có hiệu lực ràng buộc đối với người chồng:
người này không thể chỉ vì cảm thấy xót ruột khi phải chi một số tiền quá lớn
cho việc nuôi dưỡng người mình không còn yêu thương mà xin giảm bớt mức cấp
dưỡng. Trái lại, khi chính quyền thành phố kêu gọi những người đủ điều kiện và
có quan tâm ghi danh tham dự một cuộc thi vẽ đồ án cho một công trình xây dựng
mang tính biểu tượng của địa phương, chính quyền thành phố không bị buộc phải
chấp nhận một đồ án nào đó được đưa ra trong khuôn khổ cuộc thi; trong trường
hợp chấp nhận một đồ án nào đó, thì chính quyền thành phố không bị buộc phải áp
dụng đồ án đó trong việc thực hiện dứ án xây dựng công trình.
Tính có
thời hạn của cam kết. Tất
cả cam kết đơn phương đều phải có thời
hạn, bởi, một cách hợp lý, người cam kết không thể bị ràng buộc mãi mãi vào lời
hứa của mình trong điều kiện người thụ hưởng lời hứa không bày tỏ ý chí chấp
nhận lời hứa đó. Thời hạn đó có thể do chính người cam kết ấn định. Luật không
có quy định đặc biệt nào chi phối việc ấn định thời hạn của người cam kết. Nói
chung, người cam kết được tự do ấn định thời hạn đó. Tuy nhiên, để cho lời cam
kết không trở nên lố bịch, người cam kết phải ấn định thời hạn phù hợp với tập
quán, với thói quen được chấp nhận rộng rãi trong dân cư.
Vấn đề
là: trong khá nhiều trường hợp, người cam kết, khi đưa ra cam kết, không hề
nghĩ đến chuyện giới hạn hiệu lực của cam kết trong thời gian. Khi đó, trong
trường hợp có tranh chấp, Toà án phải chủ động xác định một thời hạn hợp lý cho
cam kết đó dựa vào những đặc điểm riêng của nó. Một người mua bán vàng chuyên
nghiệp niêm yết bảng giá mua bán vàng có thể rút lại đề nghị bán theo một giá
nào đó được niêm yết và thay thế bằng một đề nghị bán theo một giá khác, trong vòng
15 phút. Điều đó dứt khoát không thể chấp nhận được đối với đề nghị bán vật
liệu xây dựng, bán ôtô, xe máy, cũng của một người hoạt động chuyên
nghiệp.
Chương
II
|
SỰ KIỆN
PHÁP LÝ
Sự kiện
pháp lý được quy ước hiểu như là sự việc tạo nguồn cho nghĩa vụ mà việc thực
hiện nghĩa vụ đó có tác dụng lập lại (nhưng thường là không hoàn hảo) tình
trạng tài sản của người có quyền yêu cầu, như được ghi nhận khi sự kiện đó xảy
ra, hoặc có tác dụng bù đắp những mất mát mà người này phải gánh chịu. Trong
luật thực định Việt Nam, các sự kiện pháp lý có thể được xếp thành ba nhóm chủ
yếu: nhóm thức nhất bao gồm các hành vi gây thiệt hại dẫn đến việc quy trách
nhiệm dân sự; nhóm thứ hai gồm các quan hệ gần như hợp đồng và nhóm thứ ba gồm
các tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Thực ra, còn
một nhóm thứ tư, gồm có các nghĩa vụ do pháp luật tạo ra một cách chủ động một
khi xảy ra sự kiện được pháp luật dự kiến; song, các nghĩa vụ thuộc nhóm này
không đa dạng lắm trong luật thực định Việt Nam.
Trách nhiệm dân sự - căn cứ xác lập nghĩa vụ. Chủ thể của quan hệ pháp luật phải chịu
trách nhiệm dân sự trong trường hợp gây ra thiệt hại cho một chủ thể khác. Quan
hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ thể: một chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại[25][25].
Cả quyền yêu cầu và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đều phát sinh không theo ý
chí của các đương sự. Ngay cả trong trường hợp người gây ra thiệt hại mong muốn
bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó cũng không phải là nguồn
của nghĩa vụ bồi thường: nghĩa vụ bồi thường do luật quy định, còn người có
nghĩa vụ chỉ có ý định thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của mình không tạo ra.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Trách
nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không thực hiện
một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Người không thực hiện hoặc không thực hiện
đúng nghĩa vụ đã được giao kết mà gây thiệt hại cho người cùng giao kết, thì
phải bồi thường thiệt hại cho người sau này.
Trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một
hành vi, cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại cho một người và hành vi đó không liên
quan đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại.
Trong
BLDS hiện hành, trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng được chi phối bởi các quy tắc được thiết lập trong khuôn khổ xây dựng chế
độ pháp lý về hợp đồng; còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là đối tượng của
một chương riêng biệt (chương V phần thứ ba). Tuy nhiên, có thể ghi nhận đặc
điểm chung của trách nhiệm dân sự, dù là trong hay ngoài hợp đồng: trách nhiệm
phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự; đó có thể là quy tắc xử sự do pháp
luật quy định (trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) hoặc do ý chí của các bên
liên quan tạo ra (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Vả lại, trong luật Việt
Nam hiện hành, trách nhiệm dân sự, dù là trong hay ngoài hợp đồng, chịu sự chi
phối, trên nguyên tắc, của các quy định chung về điều kiện xác lập và về hiệu
lực. Giữa hai loại trách nhiệm dân sự thực ra cũng có một số điểm khác biệt,
đặc biệt là trong cách đánh giá về lỗi; nhưng chừng đó không đủ tạo thành những
nét đặc trưng cơ bản phân biệt loại trách nhiệm này với loại trách nhiệm khác,
thành những đối tượng riêng biệt của hoạt động nghiên cứu khoa học luật.
Tiết I.
Một số vấn đề riêng liên quan đến trách nhiệm dân sự theo hợp đồng
Sự tồn
tại của quan hệ hợp đồng. Trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng được quy kết trên có sở thừa nhận tính hữu hiệu của
hợp đồng. Nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, thì trách nhiệm dân sự chỉ có thể
được quy kết ngoài hợp đồng. Có trường hợp trách nhiệm dân sự theo hợp đồng đã
được quy kết, nhưng sau đó, hợp đồng lại bị tuyên bố vô hiệu. Khi đó, trách
nhiệm cũng được quy kết lại ngoài hợp đồng.
Hợp đồng ấy trên nguyên tắc phải được giao kết
giữa người mà sau này đã gây thiệt hại và người sau này bị thiệt hại. Trên thực
tế, có trường hợp giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại chỉ có mối
liên hệ qua một chuỗi hợp đồng. Ví dụ điển hình: chủ công trình giao kết hợp
đồng xây dựng với nhà thầu chính (thường gọi là bên B); nhà thầu chính lại giao
kết việc xây dựng một hạng mục hoặc thực hiện một công việc nào đó trong khuôn
khổ dự án xây dựng, với nhà thầu phụ (thường gọi là bên B “phẩy”); cuối cùng
nhà thầu phụ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình và chủ công trình chịu
thiệt hại. Giả sử nhà thầu chính trong giả thiết bị mất khả năng thanh toán.
Liệu chủ công trình có quyền kiện trực tiếp nhà thầu phụ để yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Mặc dù luật viết không có quy định rõ ràng ở điểm này, vẫn có thể
thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng chủ công trình phải có quyền đó: nếu
không thừa nhận điều này, thì rõ ràng, nhà thầu phụ sẽ không phải chịu trách
nhiệm dù đã có hành vi gây thiệt hại cho người khác và đó hoàn toàn trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung[26][26].
Và, một khi đã thừa nhận quyền đó cho chủ công trình, thì trách nhiệm được quy
kết có thể là trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách
nhiệm trong hợp đồng, bởi việc nhà thầu phụ tham gia thực hiện dự án có sự đồng
ý của chủ công trình (BLDS Điều 525 khoản 2) và do đó, giữa hai bên coi như có
một hợp đồng qua trung gian; trách nhiệm ngoài hợp đồng, bởi, suy cho cùng,
khái niệm hợp đồng qua trung gian là một khái niệm không có ý nghĩa.
Cũng có trường hợp hợp đồng được giao kết vì
lợi ích của người thứ ba và do người có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng mà người thứ
ba phải chịu thiệt hại. Khi đó, trách nhiệm được quy kết cũng là trách nhiệm
trong hợp đồng dù giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có quan
hệ kết ước trực tiếp, thậm chí không có quan hệ kết ước gián tiếp qua một chuỗi
hợp đồng như trong trường hợp nêu trên.
Căn cứ quy trách nhiệm: vi phạm nghĩa vụ phát
sinh theo hợp đồng. Không
có vấn đề gì đặc biệt trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là nghĩa vụ chính
đồng thời là nghĩa vụ đặc thù tương ứng với loại hợp đồng đặc thù: vi phạm
nghĩa vụ này, người vi phạm có thể chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. Người bán mà không chuyển giao tài sản bán
cho người mua, cũng như người mua mà không trả tiền mua tài sản, đều phải chịu
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
Trái
lại, sẽ có khó khăn trong việc xác định tính chất của trách nhiệm dân sự trong
trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là một nghĩa vụ phụ phát sinh từ hợp đồng. Có
những nghĩa vụ phụ thậm chí được xác lập một cách hoàn toàn độc lập với ý chí
của người có nghĩa vụ và trở nên gần giống như nghĩa vụ ngoài hợp đồng, nghĩa
vụ phát sinh từ một sự kiện pháp lý: khi đó, hợp đồng là một sự kiện và nghĩa
vụ là hệ quả ngoài ý muốn của sự kiện đó. Ví dụ điển hình là nghĩa vụ bảo đảm
an toàn cho hành khách trong hợp đồng vận chuyển hành khách[27][27].
Trong trường hợp hành khách bị tai nạn trong qua trình vận chuyển, thì người
vận chuyển phải có trách nhiệm; nhưng trách nhiệm đó là trong hay ngoài hợp
đồng ? Thực ra, vấn đề có thể không có ý nghĩa thực tiễn trong ví dụ vừa nêu
trong khung cảnh của luật thực định, bởi dù là trong hay ngoài hợp đồng, trách
nhiệm được quy kết theo cùng một chế độ pháp lý. Tuy nhiên, ý nghĩa của vấn đề
sẽ khác đi, nếu trong một trường hợp đặc thù, trách nhiệm trong hợp đồng chịu
sự chi phối của một số quy định riêng, ví dụ, quy định về thời hiệu.
Thời hiệu quy trách nhiệm. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu quy trách nhiệm,
tức là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo trách nhiệm đó, không được xác định trong
luật viết trong trường hợp trách nhiệm dân sự được xác lập ngoài hợp đồng. Giải
pháp này cũng được áp dụng trên nguyên tắc đối với trách nhiệm dân sự theo hợp
đồng. Cá biệt trong một số trường hợp, luật có quy định thời hạn để người bị
thiệt hại do có sự vi phạm đối với một nghĩa vụ phát sinh theo một hợp đồng đặc
thù khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại; quá thời hạn đó, quyền khởi kiện
không còn. Ví dụ, thời hiệu khởi kiện tranh chấp về việc thực hiện hợp đống bảo
hiểm là 3 năm (Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000 Điều 30).
Lựa chọn loại hình trách nhiệm. Trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là
nghĩa vụ theo hợp đồng, liệu người bị thiệt hại có quyền yêu cầu quy trách
nhiệm ngoài hợp đồng thay vì trách nhiệm trong hợp đồng. Vấn đề thường được đặt
ra trong một số trường hợp mà thời hiệu khởi kiện yêu cầu xác định trách nhiệm
theo hợp đồng đã hết. Luật thực định Việt Nam có vẻ không thừa nhận cho người
bị thiệt hại quyền lựa chọn loại hình trách nhiệm: trách nhiệm dân sự theo hợp
đồng phải được quy kết trong trường hợp có vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.
Tiết
II. Chế độ pháp lý về trách nhiệm dân sự
Phân
tiết I. Các điều kiện xác lập trách nhiệm dân sự
Trách
nhiệm dân sự được xác lập một khi các điều kiện sau đây đã hội đủ: có thiệt hại
xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại và có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi
gây thiệt hại với hậu quả thiệt hại. Nhưng trước hết, vấn đề trách nhiệm chỉ
được đặt ra một khi chủ thể của trách nhiệm được xác định.
I. Chủ
thể của trách nhiệm
Chủ thể của trách nhiệm phải là một nhân vật
pháp lý. Ngay cả trong trường hợp tác nhân gây thiệt
hại là một đồ vật hoặc một động vật, thì chủ thể của trách nhiệm vẫn chỉ có thể
là một nhân vật pháp lý, một chủ thể của quan hệ pháp luật. Trong luật Việt Nam
hiện hành, có đến bốn chủ thể của quan hệ pháp luật được thừa nhận: cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm pháp
lý của hộ gia đình và tổ hợp tác gặp rất nhiều khó khăn, cả về phương diện lý
luận lẫn về phương diện thực tiễn[28][28].
Trong khung cảnh của luật thực định, chỉ có pháp nhân và cá nhân được coi là
những người có khả năng chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự.
Pháp nhân. Trách
nhiệm dân sự của pháp nhân được xác lập trong các trường hợp thành viên của
pháp nhân hoặc người lao động của pháp nhân có hành vi gây thiệt hại cho người
khác. Pháp nhân không phải là một con người; bởi vậy, khi đảm nhận vai trò một
bên trong một vụ án, pháp nhân luôn phải được đại diện bởi một cơ quan có thẩm
quyền của mình (tổng giám độc, chủ tịch hội đồng quản trị,…).
Trên
thực tế, trách nhiệm của pháp nhân tồn tại song với với trách nhiệm cá nhân của
người gây thiệt hại. Bởi vậy, dù luật viết không quy định rõ, vẫn có thể thừa
nhận rằng người bị thiệt hại có quyền lựa chọn, hoặc kiện pháp nhân, hoặc kiện
chính người gây thiệt hại, để yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp người bị
thiệt hại kiện pháp nhân, thì sau khi thực hiện trách nhiệm của mình, pháp nhân
có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền
mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật (BLDS
Điều 622).
Cá nhân. Điều
chắc chắn, cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi phải tự mình chịu trách nhiệm về
những hành vi của mình mà gây thiệt hại cho người khác. Thế nhưng, trong rất
nhiều trường hợp người gây thiệt hại lại là người không có năng lực hành vi
hoặc mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình nhưng
không bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi.
Theo
BLDS Điều 611 khoản 2, khi người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà
còn cha, mẹ, thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của
cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản
riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Trong trường hợp người
chưa thành niên dưới 15 tuổi đang được trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác
quản lý, mà có hành vi gây thiệt hại cho người khác, thì trường học, bệnh viện,
tổ chức khác phải liên đới cùng với cha, mẹ bồi thường, nếu có lỗi (Điều 625). Trong trường hợp người chưa thành
niên đủ 15 tuổi gây thiệt hại, thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
không đủ tài sản để bồi thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng
tài sản của mình.
Theo
Điều 611 khoản 3, khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi gây
thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài
sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài
sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng
tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong
việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường[29][29].
Nếu người mất năng lực hành vi đang được đặt dưới sự quản lý của bệnh viện hoặc
tổ chức khác, thì bệnh viện, tổ chức đó phải liên đới cùng với người giám hộ
bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu có lỗi (Điều 625).
Trong
trường hợp người gây thiệt hại không nhận thức được hành vi của mình mà có cha,
mẹ, thì có lẽ việc xác định trách nhiệm bồi thường cũng được xác định như trong
trường hợp người mất năng lực hành vi gây thiệt hại mà có cha, mẹ, dựa vào
nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
Ta còn
lại trường hợp người gây thiệt hại chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng
không nhận thức được hành vi của mình mà không có cha, mẹ, cũng không có người
giám hộ. Trong logique của suy nghĩ, có lẽ nên thừa nhận rằng người gây thiệt
hại mà có tài sản thì cũng phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu đang được
đặt dưới sự quản lý của bệnh viện, trường học hoặc tổ chức khác, thì bệnh viện,
trường học, tổ chức khác phải liên đới chịu trách nhiệm, nếu có lỗi; còn nếu họ
không có lỗi, thì rõ ràng, đối với người bị thiệt hại, đây chỉ có thể coi như một
tai nạn do rủi ro.
II. Thiệt hại
Khái niệm. Thiệt
hại là sự mất mát mà một chủ thể của quan hệ pháp luật phải gánh chịu, là sự
thay đổi tình trạng theo chiều hướng xấu: một người có tài sản bị mất tài sản
đó, một người có sức khoẻ bình thường nay trở nên yếu đi,… Tình trạng bị thay
đổi có thể là tình trạng vật chất (tài sản, tính mạng, sức khoẻ) hoặc tình
trạng tình thần (danh dự, uy tín).
Không có thiệt hại, thì không có trách nhiệm
dân sự. Một người lái xe với tốc độ vượt giới hạn
cho phép nhưng không gây tai nạn, thì không chịu trách nhiệm dân sự với bất kỳ
ai, dù có thể phải chịu trách nhiệm hành chính (thậm chí trách nhiệm hình sự).
Luật hiện hành, khi nói về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, đã quy định rõ:
“người nào...xâm phạm....mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường” (BLDS Ðiều
609). Quy tắc này cũng được áp dụng cho việc xác lập trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng, dù luật có vẻ như muốn coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ là
một phần của trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chứ không phải là toàn bộ trách
nhiệm đó (xem BLDS Ðiều 308 và kế tiếp). Cũng có trường hợp các bên, khi giao
kết hợp đồng, thỏa thuận về việc thiết lập một điều khoản phạt vi phạm, cho
phép người có quyền đòi hỏi người có nghĩa vụ mà không thực hiện nghĩa vụ trả
cho mình một số tiền mang ý nghĩa của việc bồi thường thiệt hại, dù có khi
thiệt hại không xảy ra. Ðây là loại trách nhiệm dân sự xác lập theo ý chí,
không phải là trách nhiệm dân sự được nghiên cứu trong mục này.
Nói
chung, có thiệt hại là một trong những điều kiện cơ bản để xác lập trách nhiệm
dân sự. trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, thiệt hại làm phát sinh
trách nhiệm dân sự có thể là thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại tinh thần
1. Thiệt hại vật chất
Khái niệm. Thiệt
hại vật chất, trước hết, là thiệt hại gây ra đối với tài sản của một người. Khi
nói về trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ, luật quy định rằng thiệt
hại vật chất là tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm
nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút (BLDS Ðiều 310 khoản 1). Khi nói về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, luật quy định rằng .thiệt hại
(vật chất) được bồi thường bao gồm tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng,
lợi ích gắn liền với việc sử dụng hoặc khai thác tài sản, chi phí hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại (Ðiều 612).
Thiệt
hại vật chất cũng có thể là thiệt hại từ việc mất hoặc giảm sút khả năng tạo ra
tài sản do hậu quả của sự xâm phạm đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của con người, cũng như từ việc chi phí nhằm khôi phục các khả
năng đó hoặc nhằm xử lý các hậu quả của sự xâm phạm đó - điều trị bệnh, chôn
cất người chết,... - (các Ðiều 613, 614 và 615). Khả năng tạo ra tài sản ở đây
có thể là khả năng của chính người bị xâm hại hoặc khả năng của người được
người bị xâm hại cấp dưỡng[30][30].
Có thể
rút ra được gì từ các định nghĩa trên đây ?
a. Thiệt hại phải chắc chắn
Chắc chắn trong hiện tại và trong tương lai. Thiệt hại dẫn đến trách nhiệm dân sự, trên
nguyên tắc, phải là thiệt hại hiện hữu chứ không phải là thiệt hại giả định
hoặc thiệt hại dự kiến trong những hoàn cảnh không chắc sẽ xảy ra trong tương
lai. Một cách ngoại lệ, những thiệt hại không hiện hữu về mặt vật chất nhưng rõ
ràng là không thể tránh khỏi cũng được coi là thiệt hại chắc chắn và có thể
được bồi thường. Ví dụ: tình trạng mất năng lực lao động sau một tai nạn chắc
chắn dẫn đến việc mất thu nhập thường xuyên do lao động. Một cách ngoại lệ hơn
nữa, thiệt hại xảy ra do đánh mất một cơ may thu được lợi ích vật chất từ việc
khai thác tài sản cũng có thể được coi là thiệt hại chắc chắn, một khi xác suất
của cơ may đủ lớn để cho phép kết luận rằng lợi ích vật chất nằm trong tầm tay
của người bị thiệt hại, nếu sự kiện gây ra thiệt hại không xảy ra. Ví dụ: hồ sơ
kháng cáo án sơ thẩm cho thấy người chống án có đủ khả năng thắng kiện, nhưng
luật sư đã không nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và cuối cùng đương
sự mất quyền kháng cáo; một ứng viên đã đủ điều kiện để được tuyển dụng, chỉ
cần trình diện đúng ngày, giờ ấn định là được tiếp nhận và bố trí công tác,
nhưng do gặp tai nạn trên đường đi, không thể trình diện đúng hẹn và cuối cùng
không được tuyển dụng. Nói chung, việc xác định thiệt hại do mất một cơ may là
việc tế nhị, đòi hỏi khả năng đánh giá sáng suốt của thẩm phán.
Trái
lại, không thể coi là chắc chắn một thiệt hại hoàn toàn giả định và khả năng
xảy ra thiệt hại không cao. Một người mất một con ngựa đua không thể kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại do mất giải thưởng với lý do theo đó, nếu con ngựa
không chết thì chắc chắn sẽ chiến thằng trong cuộc đua sắp tới và sẽ mang lại
cho chủ sở hữu một món tiền lớn.
b. Thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp
Chỉ bồi thường thiệt hại trực tiếp. Những thiệt hại được bồi thường phải là
thiệt hại gây ra cho người trực tiếp gánh chịu hậu quả của sự kiện làm phát
sinh thiệt hại. Một người nhận bảo lãnh không thể kiện người gây ra tai nạn
khiến người bảo lãnh chết, với lý do rằng nếu người bảo lãnh còn sống, thì
người này sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và người nhận bảo lãnh sẽ không bị mất
tài sản. Trái lại, những người thân thuộc được người bảo lãnh cấp dưỡng có
quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại, bởi do cái chết của người này mà họ lâm
vào cảnh sống khó khăn. Cần nhấn mạnh rằng người trực tiếp chịu thiệt hại không
nhất thiết cũng là người trực tiếp bị xâm hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ:
việc một người bị xâm hại có thể dẫn đến
việc một người khác bị thiệt hại trực tiếp. Tất nhiên, người trực tiếp bị xâm
hại do hành vi trái pháp luật là một người trực tiếp chịu thiệt hại; nhưng có
thể những người khác cũng được coi là
người thiệt hại trực tiếp và cũng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của
riêng mình, độc lập với quyền yêu cầu của người trực tiếp bị xâm hại về tài
sản, tính mạng, sức khoẻ.
Thực
ra, ngay cả trong trường hợp đã xác định được người trực tiếp chịu thiệt hại,
thì vẫn còn lại hai vấn đề chính: những thiệt hại nào của người này phải được
bồi thường ? Ai là người phải chịu trách nhiệm bồi thường ? Ta sẽ tiếp tục xem
xét các vấn đề này khi nói về mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và hậu quả thiệt
hại.
c. Thiệt hại chính đáng
Xâm hại lợi ích chính đáng. Trong nhiều trường hợp, thiệt hại là có thật,
nhưng việc yêu cầu bồi thường lại tỏ ra không chính đáng. Một tên trộm bị tai
nạn giao thông trên đường tẩu thoát và bị bắt; tất nhiên, tên trộm vẫn có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ do tai nạn gây ra;
nhưng, chắc chắn, tên trộm không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị bắt, dù
rõ ràng, nếu không bị tai nạn giao thông, thì tên trộm đã có thể chạy thoát (và
nếu sau này giải nghệ hoàn lương, thì tên trộm đã có một cuộc sống bình thường
ở nơi nào đó cho đến khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự).
Một
cách tổng quát, thiệt hại chỉ được bồi thường một khi lợi ích bị xâm hại là lợi
ích chính đáng. vấn đề còn lại là xây dựng các tiêu chí cho việc xác định tính
chính đáng của lợi ích. Một lợi ích được pháp luật bảo vệ đương nhiên là lợi
ích chính đáng. Thế còn một lợi ích không được pháp luật bảo vệ nhưng cũng
không bị coi là bất chính có được xem là lợi ích chính đáng ? Trong một giả
thiết, một người phụ nữ chung sống như vợ chồng với một người đàn ông và được người
này chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo; người đàn ông bị mất khả năng lao động trong
một tai nạn giao thông và do đó, không thể tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng người
phụ nữ như trước. Người phụ nữ trong giả thiết có hay không quyền kiện người
gây tai nạn để yêu cầu bồi thường thiệt hại do mất nguồn thu nhập ? Trong khung
cảnh của luật thực định, có vẻ như thẩm phán sẽ không thừa nhận cho người phụ
nữ trong giả thiết quyền yêu cầu được bồi thường; song, chừng đó chưa đủ để đặt
cơ sở cho việc xây dựng một giải pháp mang tính khái quát theo đó, lợi ích
không bất chính nhưng không được pháp luật bảo vệ không thể được coi là lợi ích
chính đáng.
.
2.
Thiệt hại tinh thần
Hình phạt dân sự. Việc
bồi thường các thiệt hại về tinh thần được ghi nhận trong các trường hợp xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh sự nhân phẩm, uy tín của con người (các Ðiều
613, 614 và 615): tùy từng trường hợp, tòa án quyết định buộc người gây thiệt
hại (do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,...) phải bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại gánh chịu. Luật không định nghĩa
“tổn thất về tinh thần”. Nói chung, đây là những tổn thất liên quan đến các
quyền không có tính chất tài sản, đến những lợi ích phi vật chất cần thiết cho
cuộc sống: danh tiếng, tình cảm... Tổn thất về tinh thần không định giá được
bằng tiền. Cái gọi là tiền bồi thường để bù đắp tổn thất về tinh thần mang tính
chất của một hình phạt nhiều hơn là của một biện pháp bồi thường ngang giá.
Hành vi
có thể gây thiệt hại về tinh thần, trong khung cảnh của luật viết, bao gồm các
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Trên thực tế,
có những thiệt hại về tinh thần có nguồn gốc rất đặc thù: một người chứng kiến
cảnh một toán xã hội đen hành hạ một người mắc nợ cho đến chết và sau đó chìm
ngập trong trạng thái trầm cảm; do xe bus bị hỏng hóc vì lỗi nghiệp vụ của lái
xe mà một hành khách đã không kịp về đến quê nhà để gặp vợ trước khi người sau
này chết và hành khách này đã cảm thấy rất đau khổ về việc đó;...
Người có quyền yêu cầu. Người chịu thiệt hại về tinh thần có thể là
người mà hành vi trái pháp luật trực tiếp nhắm tới, nhưng cũng có thể là người
chịu thiệt hại qua trung gian của nạn nhân trực tiếp của hành vi đó. Nói chung,
trong điều kiện không có quy định rõ ràng của luật viết, tất cả những người nào
viện dẫn được một lợi ích tinh thần bị xâm hại một cách trực tiếp bởi hành vi
trái pháp luật đều có quyền kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Riêng trong
trường hợp hành vi gây thiệt hại là hành vi xâm phạm tính mạng của một người,
thì chỉ những người thân thích gần gũi nhất với nạn nhân mới có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại về tinh thần do chính mình gánh chịu từ cái chết của nạn
nhân (BLDS Điều 614 khoản 3)[31][31].
Cần lưu ý rằng trong trường hợp hành vi gây thiệt hại là hành vi xâm phạm thân
thể, thì luật chỉ thừa nhận quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần của
người bị thiệt hại qua trung gian một khi người bị xâm hại chết. Nếu người bị
xâm hại chỉ bị thương tật, thì cũng chỉ người này có thể yếu cầu bồi thường
thiệt hại về tinh thần, những người thân thích chỉ có cơ may yêu cầu bồi thường
thiệt hại vật chất[32][32].
II. Lỗi của người gây thiệt hại
A. Tổng quan
1. Khái niệm
Luật viết. Lỗi
có thể tạm hiểu như là sự sai lầm, thiếu sót trong thái độ xử sự. Luật thực
định phân biệt hai loại lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý (Ðiều 319). Lỗi cố ý được ghi
nhận trong trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại
cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc
cho thiệt hại xảy ra; lỗi vô ý được ghi nhận trong trường hợp một người không
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có
thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được.
Học thuyết. Cơ sở
của lỗi được xác định theo một trong hai cách. Hoặc, người ta nói rằng lỗi được
ghi nhận trong trường hợp có sự vi phạm đối với một nghĩa vụ đã được xác lập từ
trước: nghĩa vụ do pháp luật quy định trong trường hợp quy trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng; nghĩa vụ theo hợp đồng trong trường hợp quy trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng. Hoặc, người ta thừa nhận rằng lỗi được quy về một hành vi trái
pháp luật, tính trái pháp luật và tính có lỗi đồng nhất với nhau. Cần lưu ý
rằng khi nói “hành vi trái pháp luật” theo nghĩa của luật dân sự, ta không nhất
thiết chỉ liên tưởng đến hành vi phạm pháp, tức là hành vi vi phạm điều cấm của
pháp luật, như trong luật hình sự hoặc luật hành chính. Một người bán nhà ở cho
thuê mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của người thuê không thể bị coi là
phạm pháp nhưng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp do sự không
tôn trọng quyền ưu tiên mua đó đó mà người thuê phải chịu thiệt hại.
2. Ðiều kiện cơ bản để xác định trách nhiệm
dân sự ?
Nguyên tắc. Người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách
nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác (Ðiều 309 khoản 1). Với quy định đó, ta nghĩ rằng có
thể có trách nhiệm dân sự ngay cả khi không có lỗi, nếu có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác. Thực ra, hầu như pháp luật hiện hành chưa có quy
định nào liên quan đến việc xác định trách nhiệm dân sự trong hợp đồng mà không
có yếu tố lỗi. Còn việc thỏa thuận quy trách nhiệm dân sự mà không cần lỗi rất
dễ rơi vào trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc cấm của
thuận về quy trách nhiệm dân sự trên cơ sở xác định sự tồn tại của yếu tố khách
quan (hành vi vi phạm nghĩa vụ) mà không cần xét đến sự tồn tại của yếu tố chủ
quan (lỗi). Trái lại, những thỏa thuận về miễn, giảm trách nhiệm dân sự, về
thực hiện trách nhiệm dân sự thông qua vai trò của người khác (đặc biệt là
người bảo hiểm) rất thường gặp trong thực tiễn.
Nói
chung, luật thực định Việt Nam coi lỗi như là điều kiện cơ bản để xác định
trách nhiệm trong hợp đồng. Còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trên nguyên
tắc, chỉ có thể được quy kết trong trường hợp có lỗi cố ý hoặc vô ý của người
có trách nhiệm đó (Ðiều 609).
Cá
biệt, có trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng được xác lập mà không cần
xét đến lỗi, như khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Ðiều 627
khoản 3) và trong một số trường hợp đặc biệt khác mà trách nhiệm dân sự được
quy kết do rủi ro.
Rủi ro. Có
thể tạm định nghĩa rủi ro là một sự kiện không mong muốn, đem lại hậu quả xấu
và xảy ra một cách độc lập với ý chí của con người. ở góc độ pháp luật về trách
nhiệm dân sự, rủi ro được hiểu như một sự kiện bất trắc gây thiệt hại cho một
chủ thể của quan hệ pháp luật.
Trách
nhiệm dân sự do rủi ro được quy kết trong trường hợp có đủ căn cứ để xác lập
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một người đối với một người khác, trừ
lỗi.
Lỗi và việc xác định mức bồi thường. Trên nguyên tắc, mức độ nghiêm trọng của lỗi
không ảnh hưởng đến mức bồi thường. Với tính chất của một biện pháp bù đắp
thiệt hại, việc bồi thường được định lượng tuỳ theo mức độ thiệt hại, chứ không
phải theo mức độ lỗi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thẩm phán có xu hướng
đánh giá mức độ thiệt hại căn cứ trên mức độ lỗi. Với cách đánh giá đó, thì
cuối cùng, mức độ lỗi lại có tác dụng gián tiếp chi phối việc xác định mức độ
bồi thường.
3. Chứng minh lỗi
Người vi phạm nghĩa vụ, người gây thiệt hại
luôn được suy đoán là có lỗi. Nếu,
trong trường hợp bị thiệt hại, người bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu xác định
trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại sau khi chứng minh rằng người này có
lỗi, thì sẽ không có nhiều người bị thiệt hại được bồi thường: việc chỉ ra bằng
chứng về ý định xấu hoặc về sự cẩu thả của một người khi thực hiện một hành vi
gây thiệt hại cho người khác không phải là việc đơn giản, nếu không muốn nói là
rất khó. Bởi vậy, luật quy định: việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ
của người vi phạm nghĩa vụ dân sự. hẳn giải pháp này cũng được áp dụng cho
trường hợp xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Nói cách khác, người gây
thiệt hại luôn được suy đoán là có lỗi và chính người này phải tìm cách gạt bỏ
sư suy đoán đó bằng cách chứng minh điều
ngược lại.
Không có lỗi và trường hợp bất khả kháng. Có khi thiệt hại xảy ra, nhưng người gây
thiệt hại không có lỗi, như trường hợp gây thiệt hại trong giới hạn phòng vệ
chính đáng (Ðiều 617 khoản 1), trong tình thế cấp thiết (Ðiều 618 khoản 1). Khi
đó, người gây thiệt hại không chịu trách nhiệm dân sự.
Ta lần
lượt xem xét lỗi trong trách nhiệm do hành vi trực tiếp, do hành vi của người
khác và lỗi trong trách nhiệm đối với thiệt hại do vật gây ra.
B. Lỗi trong trách nhiệm do hành vi trực tiếp
Khái niệm hành vi trực tiếp. Ta tạm định nghĩa hành vi trực tiếp mà có
lỗi là hành vi của người sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm dân sự trong trường
hợp các điều kiện xác lập trách nhiệm dân sự đều hội đủ. Lỗi trong hành vi trực tiếp có thể là lỗi cố
ý hoặc lỗi vô ý.
Lỗi trong việc vi phạm các quy định của luật
viết. Ðó có thể là lỗi hình thành trong quá trình
vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật hành chính hoặc pháp luật dân sự. Một
người vi phạm pháp luật hình sự gây thiệt hại cho một người khác, ngoài việc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, còn phải chịu trách nhiệm dân sự; có khi hành vi
không cấu thành tội phạm hình sự hoặc vi phạm hành chính, nhưng gây thiệt hại
cho người khác và người thực hiện hành vi có lỗi, thì trách nhiệm dân sự cũng
được xác lập. Ví dụ: người giám hộ tặng tài sản của người được giám hộ cho
người khác không có tội, cũng không bị xử phạt hành chính, nhưng phải chịu
trách nhiệm dân sự.
Lỗi do
hành vi trực tiếp, trong trường hợp không có quy định rành mạch của luật viết,
rất đa dạng. Ở đây ta chỉ ghi nhận một vài ví dụ.
Lỗi trong việc thực hiện một quyền. Mỗi người có quyền đều được phép thực hiện
quyền của mình. Vấn đề là vẫn trong khuôn khổ thực hiện quyền của mình, nghĩa
là không vi phạm pháp luật, người có quyền đã gây thiệt hại cho người khác.
Trong nhiều trường hợp, người thực hiện quyền của mình mà gây thiệt hại cho
người khác mang thái độ tâm lý đặc trưng của người có lỗi. Ta gọi việc thực
hiện quyền với thái độ tâm lý đó là việc lạm dụng quyền. Một cách hợp lý, người
lạm dụng quyền mà gây thiệt hại cho người khác, thì phải chịu trách nhiệm dân
sự: chủ nhà nâng cao nền nhà với ý định để nước mưa tuôn tràn sang nhà lân cận;
người cho thuê từ chối ký tiếp hợp đồng thuê nhà với người kinh doanh chỉ nhằm
gây khó khăn cho việc ổn định hoạt động kinh doanh của người thuê;...
Lỗi trong việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Không nói về lỗi của người thực hiện hoạt
động nghề nghiệp đối với khách hàng (giữa hai người đã có hợp đồng và lỗi của
người thực hiện hoạt động nghề nghiệp đối với khách hàng là lỗi hình thành
trong quan hệ hợp đồng). Người thực hiện hoạt động nghề nghiệp có thể phạm lỗi
đối với người thứ ba và gây thiệt hại cho người sau này, dù giữa hai bên không
có quan hệ hợp đồng và do đó không có chuyện vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng:
người bảo trì xe máy sửa chữa xe không chu đáo, để xe bị hỏng hóc và gây tại
nạn cho người qua đường trong quá trình lưu thông; người kỹ sư xây dựng thi
công không đúng thiết kế, gây thiệt hại cho người láng giềng của chủ công trình
được xây dựng;...
Lỗi không hành động. Lỗi
không hành động được ghi nhận trong các trường hợp do chủ quan, bất cẩn, sơ
ý,... mà đương sự đã không làm một việc đáng lý ra phải làm, dẫn đến thiệt hại
cho người khác: chủ nhà đào một hố sâu trên lối đi vào nhà, nhưng lại không
thực hiện các biện pháp cần thiết để lưu ý người thứ ba, cuối cùng, một người
khác đi vào nhà trong đêm, rơi xuống hố và bị thương nặng;...
B. Lỗi trong trách nhiệm do hành vi của người
khác
Hành vi của người dưới mười lăm tuổi, người
mất năng lực hành vi dân sự. Theo
Ðiều 625 BLDS, nếu người dưới mười lăm tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân
sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian được đặt dưới sự quản lý trực
tiếp của trường học, bệnh viện, các tổ chức khác, thì trường học, bệnh viện,
các tổ chức khác phải liên đới cùng với cha, mẹ, người giám hộ trong việc bồi
thường thiệt hại, nhưng với điều kiện có lỗi trong việc quản lý. Nếu trường
học, bệnh viện, các tổ chức khác không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ phải
chịu trách nhiệm bồi thường. Nói cách khác, trong mọi trường hợp người dưới
mười lăm tuổi hoặc người không có năng lực hành vi gây thiệt hại cho người
khác, thì cha, mẹ, người giám hộ luôn bị coi là người có lỗi. Điều đó cũng có
nghĩa rằng quy định của Điều 611 khoản 3, theo đó nếu người giám hộ không có
lỗi, thì
Luật
không có quy định đối với trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
người khác là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Có thể nghĩ rằng người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải tự mình chịu trách nhiệm trong trường
hợp gây thiệt hại cho người khác, người
đại diện của người gây thiệt hại không chịu trách nhiệm, nhưng phải đại diện
cho người sau này trong quá trình xử lý vụ việc.
Hành vi của người thừa hành. Luật viết hiện hành, khi đề cập đến trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ghi nhận ba loại người thừa hành:
người của pháp nhân, công chức, viên chức Nhà nước và người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng (Ðiều 622, 623 và 624). Có một loại người thừa hành
nữa, được xếp chung nhóm với người học nghề: người làm công.
Trong
trường hợp người của pháp nhân, công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại cho người khác trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao, mà có lỗi, thì pháp nhân, cơ
quan Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng (gọi chung là pháp nhân), coi như có
lỗi và phải chịu trách nhiệm trước người thứ ba. Nhắc lại rằng, pháp nhân chỉ
chịu trách nhiệm trong trường hợp người thừa hành gây thiệt hại trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ hoặc công việc được giao: quyền và nghĩa vụ giám sát của
pháp nhân đối với người thừa hành, cơ sở của trách nhiệm dân sự trong trường
hợp này, chỉ giới hạn trong phạm vi nhiệm vụ hoặc công việc đó.
Hành vi của người học nghề. Người học nghề không phải là người lao động
thực sự. Trong chừng mực nào đó, quan hệ giữa người dạy nghề và người học nghề
có những nét tương tự như quan hệ giữa người giám hộ và người được giám hộ.
Ðáng lý ra, người dạy nghề phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do người
học nghề gây ra trong thời gian người sau này được đặt dưới sự giám sát của
mình, bất kể hành vi gây thiệt hại được thực hiện trong hay ngoài khuôn khổ học
nghề. Tuy nhiên, luật hiện hành, khi nói về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng,
đồng hóa người học nghề với người làm công (người lao động); bởi vậy, người dạy
nghề không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do người học nghề gây ra, nếu
thiệt hại đó không xuất phát từ hành vi có liên quan đến việc học nghề.
c - Lỗi trong trách nhiệm đối với thiệt hại do
vật gây ra
Vật gây thiệt hại. Vật có thể gây thiệt hại, trong luật hiện
hành, bao gồm: nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, nhà cửa và công trình
xây dựng khác. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm dân sự trong trường hợp có
thiệt hại do vật gây ra chỉ được thực hiện một khi vật được đặt dưới sự quản lý
vật chất của một người: việc vật không người quản lý gây thiệt hại cho một
người không làm phát sinh trách nhiệm do lỗi của bất kỳ ai[33][33].
“Quản lý vật chất” bao hàm khả năng chế ngự đối với vật, khả năng ngăn chặn
việc vật gây thiệt hại. Người quản lý vật chất không nhất thiết là người có
quyền đối với vật về mặt pháp lý: người trộm xe máy là người chế ngự xe, nhưng
không phải là chủ sở hữu xe.
Hơn
nữa, chỉ áp dụng được chế độ trách nhiệm dân sự do vật gây ra, trong trường hợp
thiệt hại có nguồn gốc từ “tác động tự thân của vật” chứ không phải từ hành vi
của người: súc vật tự động cắn người, chủ sở hữu của súc vật phải chịu trách
nhiệm theo Ðiều 629 BLDS; nhưng nếu chủ sở hữu xua chó cắn người thì chủ sở hữu
chịu trách nhiệm theo luật chung, bởi khi đó, chính người dùng vật như một công
cụ để gây thiệt hại cho người khác. Có trường hợp vật đang được một người chế
ngự một cách hoàn hảo, những bản thân vật lại có những “hành động” riêng gây
thiệt hại cho người khác: người lái xe đúng luật cán lên một viên sỏi khiến
viên sỏi bay vào cửa hàng bên đường làm vỡ kính. Trong một trường hợp khác,
người chế ngự mong muốn chế ngự vật một cách hoàn hảo, nhưng vật hoạt động hoàn
toàn ngoài ý muốn và gây thiệt hại: người lái xe muốn dừng xe, nhưng hệ thống
phanh không hoạt động và gây tai nạn. Nói cách khác, để có trách nhiệm dân sự
do vật gây ra, thì vật phải là tác nhân gây thiệt hại, trong khi người trông
giữ, chế ngự vật không muốn điều đó.
Người chịu trách nhiệm. Người
chịu trách nhiệm không nhất thiết là chủ sở hữu đối với vật gây ra thiệt hại.
Ta biết rằng trong lúc gây thiệt hại, vật có thể đang đặt dưới sự quản lý vật
chất của một người không phải là chủ sở hữu. Luật quy định rằng trong trường
hợp vật gây thiệt hại, thì trên nguyên tắc người chịu trách nhiệm là người đang
trông giữ, chế ngự vật. Thông thường, chủ sở hữu đồng thời là người trông giữ,
chế ngự vật; có trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng vật cho người
khác; cũng có trường hợp người trông giữ, chế ngự vật không có một quyền nào
được pháp luật thừa nhận đối với vật, như khi vật đang nằm trong tay kẻ cướp.
Người
trông giữ, chế ngự vật gây thiệt hại luôn bi coi là có lỗi. Khoản 3 Ðiều 627
BLDS nói rằng chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ một
vài trường hợp do luật dự liệu; nhưng đó, suy cho cùng chỉ là cách diễn đạt
khác của sự quy lỗi trong trường hợp đặc thù mà lỗi mang tính đương nhiên. Lỗi
hình thành từ thái độ tâm lý của một người có nghĩa vụ trông giữ, chế ngự vật
mà đã không thực hiện đúng nghĩa vụ đó.
Ðối với
nguồn nguy hiểm cao độ và súc vật, nếu người trông giữ, chế ngự vật không có
quyền đối với vật, nhưng chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng vật có lỗi trong việc để vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì
những người này có trách nhiệm liên đới
(Ðiều 627 khoản 4; Ðiều 629 khoản 3). Ví dụ: chủ sở hữu xe máy để cho một người
khác sử dụng xe trong khi người sau này không có giấy phép lái xe, người lái xe
không làm chủ được tốc độ và cuối cùng gây tai nạn.
3. Có
mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và hậu quả thiệt hại
a. Xác lập mối liên hệ nhân quả
Tác giả của thiệt hại. Người
có lỗi không nhất thiết phải bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh sau khi
xảy ra hành vi gây thiệt hại của mình: chỉ những thiệt hại nào là hệ quả tất
yếu của việc phạm lỗi mới thuộc phạm vi trách nhiệm của người có lỗi. Nói cách
khác, người có lỗi chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại mà mình là
tác giả. Quy tắc khá đơn giản nhưng không dễ áp dụng.
Thiệt hại nào là hậu quả của lỗi và lỗi nào
dẫn đến thiệt hại ? Thử
lấy một ví dụ: một người thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền của Ngân hàng
và dùng tiền mua cây giống mắc bệnh; trồng cây giống trong vườn, bệnh của cây
giống lan sang các cây khác; toàn bộ vườn cây không sinh lợi, người trồng cây
không có tiền để trả nợ cho Ngân hàng, cuối cùng phải để Ngân hàng yêu cầu kê
biên và bán đấu giá quyền sử dụng đất cho người khác; vợ người trồng cây đau
buồn, sinh bệnh và chết; con người trồng cây phải bỏ học, đi làm thuê và bị
thương dẫn đến tật nguyền sau một tai nạn lao động. Rõ ràng, người bán cây
giống chuyên nghiệp trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm dân sự, nhưng
người này phải bồi thường thiệt hại đến mức độ nào ?
Một ví
dụ khác: một công chức được thủ trưởng đơn vị yêu cầu ở lại cơ quan để giải
quyết cho xong công việc, dù thời gian làm việc trong ngày đã hết; ra về trễ,
công chức bị tai nạn do một người lái xe
tải say rượu gây ra, trong lúc giảm tốc độ xe đột ngột để tránh một chiếc xe
máy do một người không có giấy phép lái xe điều khiển từ trong nhà lao ra đường
mà không báo trước, cũng không xin đường. Lỗi nào dẫn đến thiệt hại của người
công chức ? Sai lầm của thủ trưởng trong việc sử dụng lao động quá thời gian
cho phép ? Lỗi của người lái xe tải: điều khiển xe lúc say rượu ? Lỗi của người
đi xe máy không có giấy phép ?
b. Luật thực định
Mọi trách nhiệm đều có giới hạn. Một khi đã xác định được người có lỗi, như
trong ví dụ thứ nhất trên đây, thì phạm vi thiệt hại thuộc trách nhiệm của lỗi
được luật giới hạn tùy trường hợp. Nguyên tắc được thừa nhận trong luật hiện
hành là ngay nếu như từ một lỗi mà có nhiều thiệt hại phát sinh cùng một lúc
hoặc liên tục xảy ra trong thời gian, thì người có lỗi vẫn chỉ phải chịu trách
nhiệm đến một giới hạn nào đó. Tuy nhiên, “giới hạn” lại chưa được xác định rõ
trong câu chữ của luật viết. Ví dụ: một người đánh một người khác đến trọng
thương; người gây thương tật phải bồi thường theo các quy định tại Ðiều 613
BLDS, nghĩa là phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại sau đây: chi phí hợp
lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm
sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người
bị thiệt hại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm chi
phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có; ngoài ra, tùy
trường hợp tòa án có thể quyết định buộc người xâm phạm đến sức khỏe của người
khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
phải gánh chịu. Và theo Ðiều 616 BLDS, trong trường hợp người bị thiệt hại mất
hoàn toàn khả năng lao động, thì người này được bồi thường cho đến khi chết;
trong trường hợp người bị thiệt hại chết, thì những người mà người này có nghĩa
vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây: a -
Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn
sống sau khi sinh ra được hưởng bồi thường cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường
hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ
nuôi sống bản thân; b - Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Trong
trường hợp xác định được thiệt hại, như trong ví dụ thứ hai nêu trên, thì có vẻ
như luật muốn để cho tòa án kết luận về lỗi dẫn đến thiệt hại tùy theo từng vụ,
chứ không đề ra giải pháp nguyên tắc. Tuy nhiên, hẳn những sai lầm không tất
yếu dẫn đến thiệt hại không thể được coi là lỗi có quan hệ nhân quả với thiệt
hại đó. Trong ví dụ thứ hai nêu trên, khó có thể tìm cách quy lỗi cho người thủ
trưởng đã yêu cầu người công chức bị tại nạn ở lại sau giờ làm việc.
c. Tham khảo luật so sánh
Thiệt hại do nhiều nguyên nhân. Trong ví dụ về người công chức, rõ ràng là
thiệt hại gắn với nhiều nguyên nhân khác
nhau. Các vấn đề được đặt ra như đã được ghi nhận ở trên.
Trong
học thuyết pháp lý phương Tây, vấn đề được giải quyết tuỳ theo người ta lựa
chọn giữa học thuyết về sự tương đương của các điều kiện (équivalence des conditions) và học thuyết về mối liên hệ nhân quả
thích ứng (causalité adéquate).
- Theo
học thuyết về sự tương đương đương giữa các điều kiện, thì tất cả những tình
huống dẫn đến hậu quả thiệt hại đều được coi là nguyên nhân trực tiếp của thiệt
hại và là sự kiện pháp lý có tác dụng xác lập trách nhiệm dân sự. Trong ví dụ
liên quan đến người công chức, cả người lái xe tải say rượu, người điều khiển
xe máy không có giấy phép lái xe và thủ trưởng cơ quan đều phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại gây ra cho người công chức.
- Theo
học thuyết về mối liên hệ nhân quả thích ứng, thì chỉ những tình huống nào trực
tiếp tạo rủi ro dẫn đến thiệt hại mới được coi là nguyên nhân trực tiếp của
thiệt hại. Trong ví dụ liên quan đến người công chức, thì chỉ có người lái xe
say rượu và người điều khiển xe máy không có giấy phép lái xe
Thiệt hại gián tiếp. Nhắc lại rằng trong khung cảnh của luật hiện
hành, chỉ có thiệt hại trực tiếp mới có thể được bồi thường. Thế nhưng, đâu là
các tiêu chí xác định tính chất trực tiếp hoặc gián tiếp của một thiệt hại ?
Trong ví dụ về người nông dân mua cây giống mắc bệnh, ta ghi nhận được một
chuỗi thiệt hại dây chuyền[34][34].
Rõ ràng, sự nhiễm bệnh của cả vườn cây là thiệt hại trực tiếp; việc tài sản của
người làm vườn bị kê biên cũng có thể coi là thiệt hại trực tiếp; còn việc
người vợ chết và người con bị tật nguyền khó có thể được coi là thiệt hại trực
tiếp, dù, nếu nhìn nhận vấn đề theo đạo lý, người ta luôn có thể thiết lập được
mối liên hệ giữa các thiệt hại đó và hành vi bán cây giống nhiễm bệnh.
Trong
luật của Pháp, học thuyết pháp lý và án lệ nói rằng nếu sự kiện pháp lý ban đầu
đóng một vai trò của một điều kiện cần và chủ yếu đối với việc phát sinh một
thiệt hại, thì tác giả của sự kiện phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đó. Trong ví dụ về người làm vườn, cái chết của người vợ có thể có nguyên nhân
chính là lỗi nghiệp vụ của bác sĩ; còn tai nạn xảy ra cho người con có thể phần
lớn do lỗi của người sử dụng lao động hoặc lỗi của chính người lao động hoặc cả
hai.
d. Chứng minh mối liên hệ nhân quả
Người bị thiệt hại phải chứng minh. Luật viết không có quy định về trách nhiệm
chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại. Song, một cách hợp lý,
có thể thừa nhận rằng chính người bị thiệt hại phải chứng minh rằng thiệt hại
có nguồn gốc từ hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại. Nếu điều ngược
lại được thừa nhận, thì cứ hình dung: buổi sáng, có một người ném một lọ hoa
qua cửa sổ; buổi chiều, có một người khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do
bị lọ hoa rơi trúng vào đầu gây thương tích; vậy, người ném lọ hoa phải chứng
minh rằng thương tích của người đi kiện là do nguyên nhân khác chứ không phải
do lọ hoa rơi trúng.
Phân
tiết II. Quy trách nhiệm
I. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
1. Các bên của vụ kiện
Nguyên đơn. Người
bị thiệt hại có quyền kiện người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó, để yêu
cầu bồi thường. Trong trường hợp người bị thiệt hại không thể tự mình thực hiện
quyền kiện do không có năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của
mình, thì người đại diện của người này có quyền kiện. Nếu người bị thiệt hại
chết, thì người thừa kế có quyền kiện.
Cần
phân biệt giữa người có quyền yêu cầu và người thừa kế của người này. Trong rất
nhiều trường hợp mà người bị thiệt hại chết do hệ quả của hành vi gây thiệt
hại, người ta thường nhầm lẫn giữa người yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người
chết, với tư cách là người thừa kế, và người yêu cầu bồi thường thiệt hại của
chính mình, thiệt hại phát sinh do cái chết của chính người bị thiệt hại.
Trong
trường hợp người bị thiệt hại được bảo hiểm về phần thiệt hại đó, thì sau khi
bồi thường cho người bị thiệt hại, người bảo hiểm sẽ thay thế người bị thiệt
hại đứng nguyên đơn trong vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cần
phân biệt bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người (bảo hiểm nhân thọ hoặc
thương tật). Tiền bồi thường bảo hiểm con người được chi trả một khi sự kiện dự
kiến (cái chết hoặc thương tật) xảy ra và việc chi trả này không liên quan gì
đến việc quy trách nhiệm cho người đã có hành vi dẫn đến sự kiện đó.
Bị đơn. Người
bị kiện tất nhiên là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường
hợp người này chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi, thì người bị kiện là
cha, mẹ, người giám hộ. Nếu người chưa
thành niên dưới 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi được đặt dưới sự quản
lý của trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác trong lúc thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho người khác, thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác có thể cũng
bị kiện, nếu có lỗi. Trong trường hợp người gây thiệt hại thành niên, không
nhận thức được hành vi của mình nhưng chưa bị tuyên bố mất năng lực hành vi và
còn cha, mẹ, thì người bị kiện là cha, mẹ.
Nếu
người trực tiếp chịu trách nhiệm bồi thường chết, thì người thừa kế đảm nhận
vai trò bị đơn. Trong trường hợp pháp nhân chịu trách nhiệm bồi thường chấm dứt
mà có pháp nhân kế thừa, thì pháp nhân kế thừa đảm nhận vai trò bị đơn.
Trong
trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại (BLDS Điều 620)[35][35]:
người bị thiệt hại có quyền kiện một người trong số những người này để yêu cầu
bồi thường toàn bộ. Trong mối quan hệ nội bộ giữa những người cùng gây thiệt
hại, thì người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với người bị thiệt hại có
quyền yêu cầu những người cùng gây thiệt hại hoàn trả cho mình phần bồi thường
mà mỗi người trong số họ phải chịu trách nhiệm. Cũng theo BLDS Điều 620, trách
nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với
mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi, thì họ phải bồi
thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
2. Tính hữu hiệu của quyền khởi kiện
Dàn xếp tự nguyện. Khác
với những vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính, các hành vi trái pháp luật
dẫn đến việc quy trách nhiệm dân sự có thể được xử lý bằng con đường dàn xếp tự
nguyện giữa các bên liên quan. Dàn xếp tự nguyện cũng là một loại hợp đồng, do
đó, phải tuân theo các điều kiện do pháp luật quy định đối với việc xác lập hợp
đồng: năng lực, sự ưng thuận, đối tượng, tính trung thực trong giao kết,… Trong
khung cảnh của luật thực định, một khi sự dàn xếp tự nguyện về việc bồi thường
thiệt hại được giao kết phù hợp với các quy định của luật chung về hợp đồng,
thì sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, đặc biệt là có tác dụng thủ tiêu
quyền kiện đòi bồi thường của người bị thiệt hại.
Trong
trường hợp có nhiều người cùng chịu trách nhiệm, thì việc dàn xếp tự nguyện chỉ
có hiệu lực giữa những người tham gia dàn xếp. Người gây thiệt hại mà không
tham gia vào việc dàn xếp có quyền bảo lưu ý kiến của mình.
Điều khoản loại trừ quyền khởi kiện. Trong trường hợp thiệt hại có nguồn gốc từ
việc vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường có thể được các
bên loại bỏ ngay từ lúc giao kết hợp đồng bằng con đường thoả thuận. Các thoả
thuận này thường được ghi nhận dưới một trong hai hình thức: thoả thuận miễn
trách nhiệm và thoả thuận phạt vi phạm.
- Thoả
thuận miễn trách nhiệm không phải là thoả thuận miễn thực hiện nghĩa vụ: người
có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ; nhưng nếu người này không thực hiện,
thì cũng không phải chịu trách nhiệm. Giá trị của thoả thuận loại này chưa được
xác định rõ trong luật Việt Nam hiện hành. Tuy nhiên, có thể nói rằng, nếu các
bên có quyền đạt tới những thoả thuận như thế, thì việc miễn trách nhiệm cũng
không thể được chấp nhận trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ do lỗi cố ý.
Hẳn cũng không thể chấp nhận việc thoả thuận miễn trách nhiệm trong trường hợp
gây thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,…
- Thoả
thuận phạt vi phạm có thể coi như một kiểu bồi thường “khoán” do không thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. “Khoán” bởi vì, một mặt, mức bồi thường được các
bên ấn định sẵn vào thời điểm giao kết hợp đồng, tức là trước khi xảy ra vi
phạm; mặt khác, việc bồi thường được thực hiện chỉ dựa vào sự vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng, nghĩa là dựa vào lỗi của người vi phạm, chứ không căn cứ vào mức
độ thiệt hại phát sinh từ sự vi phạm đó, thậm chí không căn cứ vào sự tồn tại
(tính hiện thực) của thiệt hại.
Hết thời hiệu khởi kiện. Luật Việt Nam hiện hành không có quy định về
thời hiệu kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng
quyền kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại tồn tại vĩnh viễn, như quyền sở hữu. Có
lẽ, trong hầu hết trường hợp, người bị thiệt hại đều nhanh chóng thực hiện
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình, do đó, thẩm phán hầu như không có
cơ hội xem xét và giải quyết các yêu cầu bác đơn kiện với lý do vụ việc đã xảy
ra quá lâu. Tuy nhiên, việc xác định thời hiệu cho các quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại vẫn tỏ ra cần thiết để ngăn ngừa khả năng Toà án phải xem xét những
vụ việc đã xảy ra quá lâu.
II. Thể thức bồi thường thiệt hại
1. Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu bồi
thường.
Thời điểm xác lập trách nhiệm dân sự. Bản án của Toà án không phải là căn cứ xác
lập quyền yêu cầu bồi thường: bản án chỉ xác nhận một quyền yêu cầu bồi thường
tồn tại ngay từ thời điểm xảy ra sự kiện dẫn đến việc xác lập trách nhiệm. Vả
lại, người có nghĩa vụ chỉ bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ một khi đã được cơ
quan thi hành án đốc thúc thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn mà vẫn không
chịu thực hiện nghĩa vụ đến khi hết thời hạn đó.
2. Hình thức bồi thường
Bằng hiện vật. Thực
hiện nghĩa vụ bồi thường bằng hiện vật, người có nghĩa vụ phải làm cho tài sản
bị xâm hại trở lại tình trạng như trước khi có sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ.
Một người xây dựng trái phép trên phần đất của một người khác tiến hành phá dỡ
vật kiến trúc và trả lại mặt bằng cho người có quyền sử dụng đất.
Trên nguyên
tắc, nếu người có nghĩa vụ bồi thường đề nghị bồi thường bằng hiện vật và việc
bồi thường là có thể thực hiện được, thì người có quyền không được phép từ chối
và yêu cầu thay thế bằng việc trả tiền bồi thường. Nhưng, nếu người có nghĩa vụ
không có đề nghị gì đặc biệt về hình thức bồi thường, thì người có quyền có thể
chủ động yêu cầu bồi thường bằng hiện vật, một khi việc bổi thường theo cách
này có thể thực hiện được.
Trên
thực tế, việc bồi thường, cho dù có bằng hiện vật, không bao giờ có thể bù đắp
thiệt hại một cách trọn vẹn. Bối thường bằng hiện vật không bao giờ là việc tái
lập tình trạng ban đầu mà chỉ là sự cố gắng vươn tới tình trạng ban đầu trong
chừng mực cho phép.
Bằng tiền. Tất
nhiên, các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường. Một khi thoả thuận đáp ứng
đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định về giao kết hợp đồng, thì sẽ có hiệu
lực ràng buộc đối với các bên, vấn đề mức bồi thường theo thoả thuận có bù đắp
tương xứng hay không đối với thiệt hại không được đặt ra.
Trong
trường hợp các bên không đạt được sự thoả thuận cần thiết, thì thẩm phán xác
định mức bồi thường. Các tham số để xác định mức bồi thường được xây dựng tại
BLDS các Điều từ 612 đến 615 tuỳ theo đặc điểm của đối tượng bị xâm hại. Ví dụ,
nếu đối tượng bị xâm hại là tài sản, thì thiệt hại được bồi thường bao gồm tài
sản bị mất, bị hủy hoại hoặc hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai
thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn8n chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Nếu đối tượng bị xâm hại là tính mạng của con người, thì thiệt hại được bồi
thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị
thiệt hại trước khi chết, chi phí hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Luật không
có quy định về thời điểm mà các chỉ số giá cả của thời điểm đó phải được dùng
làm căn cứ để ấn định mức bồi thường.
TOP
|
Khái niệm. Luật
viết hiện hành định nghĩa tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ
pháp luật bằng cách xác định nghĩa vụ của người này (BLDS Ðiều 604 khoản 2):
người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị
thiệt hại, thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường
hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 255 BLDS (khoản 1 Ðiều 255 BLDS nói về việc xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu của người chiếm hữu tài sản một cách ngay tình,
liên tục, công khai).
Ðiều
604 khoản 1 còn quy định rằng người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác
mà không có căn cứ pháp luật, thì phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp, thì phải giao cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy
định tại khoản 1 Ðiều 255 BLDS. Các điều kiện của nghĩa vụ giao trả được xác
lập tại điều luật bao gồm: 1 - Có người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản không
phải của mình và người chiếm hữu, sử dụng biết rõ điều đó; 2 - Việc chiếm hữu,
sử dụng đó là không có căn cứ pháp luật.
Ta chỉ có thể hình dung nguyên nhân của tình trạng chiếm hữu, sử dụng
đó, như sau: hoặc tài sản được giao cho người chiếm hữu, sử dụng bằng cách
chiếm đoạt; hoặc tài sản được giao cho người chiếm hữu, sử dụng theo một giao
dịch bị tuyên bố vô hiệu, bị hủy bỏ, bị đình chỉ hiệu lực; hoặc tài sản được
giao nhầm cho người chiếm hữu, sử dụng. Với nguyên nhân thứ nhất, ta trở lại
các phân tích liên quan đến trách nhiệm dân sự; với nguyên nhân thứ hai, ta trở
lại các phân tích liên quan đến hợp đồng; vậy còn lại nguyên nhân thứ ba: giao
nhầm tài sản. Suy cho cùng, giao nhầm tài sản cũng là một trường hợp được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp
luật, quy định tại Ðiều 604 khoản 2.
Trong
các phân tích sau đây, ta chỉ quan tâm đến quy định tại Ðiều 604 khoản 2.
1.Các điều kiện hình thành tình trạng được lợi
về tài sản mà không có căn cứ pháp luật
a. Ðiều kiện vật chất: được lợi về tài sản và
gây thiệt hại cho người khác
Ba yếu tố. Dựa
vào BLDS Ðiều 604 khoản 2, ta nhận xét rằng về phương diện vật chất, tình trạng
được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật hình thành từ ba yếu tố: có một
người được lợi về tài sản; có một người khác bị thiệt hại; có sự tương ứng về
nhân và quả giữa việc một người được lợi và một người khác bị thiệt hại.
Có một người được lợi. “Tình trạng được lợi” được hiểu theo nghĩa
rộng nhất: không chỉ là việc có được một tài sản hoặc một sự gia tăng giá trị
tài sản, mà có thể còn là việc thực hiện được một khoản tiết kiệm do tránh được
các khoản chi (hưởng thành quả lao động của người khác mà không phải trả lương;
được người khác trả nợ thay; được sử dụng một vật mà không phải trả tiền
thuê;...).
Có một người bị thiệt hại. Vấn đề được lợi về tài sản có hay không có
căn cứ pháp luật không được đặt ra, nếu không có một người bị thiệt hại. Có
trường hợp một người đóng góp vào việc gia tăng giá trị của khối tài sản của
người khác, nhưng lại không chịu bất kỳ một thiệt hại nào, ví dụ: một người cố
vấn cho một người khác trong một vụ kinh doanh bất động sản và đã được trả thù
lao cho lời cố vấn đó; người mua bất động sản cuối cùng được lợi vượt quá dự
kiến do bất động sản tăng giá đột ngột; người cố vấn không thể yêu cầu được dự
phần vào việc thụ hưởng lợi ích bất ngờ đó.
Có sự tương ứng giữa việc một người được lợi
và một người khác bị thiệt hại. Việc
một người được lợi về tài sản phải đồng thời có nghĩa rằng có một người khác
chịu thiệt hại về tài sản. Ðược lợi và chịu thiệt hại là hai khía cạnh của một
sự việc duy nhất.
b. Ðiều kiện pháp lý: không có căn cứ pháp
luật
Chỉ cần tình trạng được lợi không có căn cứ
pháp luật. Nếu tình trạng được lợi có căn cứ pháp luật,
thì người bị thiệt hại không thể kiện cáo, ngay cả trong trường hợp tình trạng
thiệt hại là không có căn cứ pháp luật. Ví dụ: theo hợp đồng cho thuê nhà,
người cho thuê sẽ tiếp quản tất cả các công trình do người thuê xây dựng khi
hết hạn cho thuê mà không phải bồi thường; người thuê hợp đồng với nhà thầu xây
dựng một số công trình phụ mà không trả tiền công xây dựng; khi hết hạn cho
thuê. Nhà thầu trong trường hợp này không thể yêu cầu người cho thuê trả tiền
thay, dù rõ ràng nhà thầu bị thiệt hại trong khi người cho thuê đựơc hưởng lợi.
Giải pháp của luật cho vấn đề nêu ra trong ví dụ được xây dựng như sau: người
cho thuê có quyền sở hữu đối với các công trình phụ (bởi tình trạng được lợi là
có căn cứ pháp luật); còn nhà thầu phải yêu cầu người thuê trả tiền theo hợp
đồng xây dựng và bồi thường thiệt hại cho mình do vi phạm nghĩa vụ theo hợp
đồng.
Thế nào là không có căn cứ pháp luật ? Tình trạng được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật được ghi nhận trong điều kiện không có bất kỳ một quy tắc pháp lý
nào có thể được dùng để đặt cơ sở cho việc được lợi đó. Một người, giao kết hợp
đồng bán cho một người khác 20 tấn hàng, thực tế giao cho người mua đến 25 tấn nhưng lại ngỡ rằng chỉ giao đủ 20 tấn: rõ
ràng không có cách gì để biện minh cho việc người mua được lợi 5 tấn hàng. Một
người nhặt được một chiếc ví bị đánh rơi không thể biện minh cho việc giữ lấy
số tiền có trong ví làm của riêng.
Lỗi của người bị thiệt hại. Có khi một người được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật, nhưng người bị thiệt hại lại hoàn toàn có lỗi trong việc
gây ra thiệt hại đó. Luật không có quy định chính thức cho trường hợp này;
nhưng trong logique của sự việc, ta không xây dựng được lý lẽ của việc người bị
thiệt hại yêu cầu người được lợi thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Ví dụ: một
người thợ bảo trì cố tình đẩy xe của một người khác vào garage của mình để tân
trang, chủ sở hữu xe không yêu cầu;
người thợ khó có thể buộc chủ sở hữu xe hoàn trả cho mình khoản lợi từ việc gia
tăng giá trị của chiếc xe sau khi tân trang.
2. Hiệu lực của tình trạng được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật
Nghĩa vụ của người được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật. Theo
BLDS Ðiều 604 khoản 2, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật
làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị
thiệt hại. Nhắc lại rằng người được lợi phải hoàn trả khoản lợi chứ không phải
bù đắp thiệt hại. Vấn đề không có gì đặc biệt trong trường hợp khoản lợi và
thiệt hại có giá trị tương đương. Nhưng thông thường, hai khoản này không ngang nhau: một người có
thể đổ một khoản tiền rất lớn để tu bổ tài sản của người khác, nhưng cuối cùng
giá trị của tài sản được tu bổ gia tăng không đáng kể; người được lợi chỉ phải
hoàn trả phần gia tăng giá trị của tài sản đó.
Vấn đề
là giá trị của khoản lợi phải được xác định ở thời điểm nào ? Thời điểm phát
sinh tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật ? Thời điểm
khởi kiện của người bị thiệt hại ? Thời điểm ra bản án ? Luật viết chưa có quy
định ở điểm này.
Khả năng tồn tại một quyền yêu cầu khác của
người bị thiệt hại. Giả
sử người bị thiệt hại được luật công nhận có một quyền yêu cầu khác để bù đắp
thiệt hại của mình (kiện đòi lại tài sản, kiện đòi bồi thường thiệt hại,...),
thì liệu người này cũng còn có quyền yêu cầu hoàn trả khoản lợi, để có thể lựa
chọn quyền mà việc thực hiện tỏ ra tiện lợi nhất cho mình giữa hai quyền yêu
cầu ? Hoặc, nếu có một quyền yêu cầu khác, nhưng người có quyền yêu cầu đã đánh
mất quyền đó theo thời hiệu, thì liệu người này có thể dựa vào tình trạng được
lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật của người khác để yêu cầu bù đắp
thiệt hại cho mình ?
Ðối với
vấn đề thứ hai, giải pháp có lẽ đã được xác định trong luật thực định: một khi
quyền khởi kiện mất đi theo thời hiệu, thì việc một người được lợi về tài sản
được pháp luật thừa nhận, nghĩa là có căn cứ pháp luật; người bị thiệt hại
không thể làm gì được nữa. Còn đối với vấn đề thứ nhất, ta chưa có giải pháp
chắc chắn. Dẫu sao, cần lưu ý rằng nghĩa vụ trong luật thực định Việt Nam không
mất đi do thời hiệu…
Khái niệm. Theo
BLDS Ðiều 599, thực hiện công việc mà không có ủy quyền là việc người không có
nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối. Thực ra, thực hiện công việc mà không có ủy quyền,
trong luật thực định Việt Nam, không hẳn là nguồn của những nghĩa vụ phát sinh
ngoài ý chí của các bên liên quan: nếu một người thực hiện công việc vì người
khác mà người sau này biết nhưng không phản đối, thì có thể nói rằng giữa hai
người có một hợp đồng ủy quyền mặc nhiên về việc thực hiện các công việc đó.
Mặc nhiên, bởi vì hợp đồng ủy quyền không được giao kết theo các quy định chung
về một hợp đồng ủy quyền thực sự, nhất là không được lập thành văn bản (Ðiều
586). Thế nhưng, trong trường hợp một người thực hiện công việc vì người khác
mà người sau này không biết, thì không thể nói rằng các nghĩa vụ phát sinh theo
ý chí của những người có liên quan, bởi, như ta sẽ thấy, cả người có công việc
được thực hiện cũng có nghĩa vụ, dù không hề bày tỏ ý chí, trong một hợp đồng
hay một cam kết đơn phương, về việc xác lập các nghĩa vụ đó.
Trong
các phân tích sau đây, ta chỉ quan tâm đến trường hợp một người thực hiện công
việc vì lợi ích của người khác mà người sau này không biết.
1. Các điều kiện xác lập tình trạng thực hiện
công việc không có ủy quyền
Ðiều kiện liên quan đến công việc được thực
hiện. Công việc được thực hiện có thể là một giao
dịch pháp lý (giao kết hợp đồng sửa chữa tài sản, trả nợ,...) hoặc một giao
dịch vật chất (chuyển người bị thương đến bệnh viện, chăm sóc vật nuôi của
người khác,...). Ðiều quan trọng là giao dịch phải hợp pháp: một giao dịch trái
pháp luật, dù có lợi cho người có công việc được thực hiện, không thể đặt cơ sở
cho việc xác lập chế độ thực hiện công việc không có ủy quyền.
Ðiều kiện về tính hữu ích của công việc. Luật quy định rằng người thực hiện công việc
mà không có ủy quyền phải thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện (xem lại khái niệm). Thông thường công việc được thực
hiện mà không có ủy quyền là những công việc có tính chất khẩn cấp và cần thiết
cho việc bảo toàn các quyền lợi của người có công việc được thực hiện. Tính
chất hữu ích của công việc phải được xem xét ở thời điểm công việc được thực
hiện chứ không phải dựa vào kết quả đạt được sau này. Ví dụ: nhà bị hư mái;
người chiếm hữu nhà bỏ tiền ra sửa lại mái nhà; sau đó, nhà bị cháy toàn bộ;
chủ sở hữu nhà vẫn phải hoàn tiền sửa nhà cho người chiếm hữu, dù công việc,
cuối cùng, chẳng đem lại kết quả nào thiết thực.
Ðiều kiện đối với người thực hiện công việc. Người thực hiện công việc phải có ý định
thực hiện công việc vì lợi ích của người khác. Nếu người này thực hiện công
việc với ý thức (nhầm lẫn) rằng việc được thực hiện vì lợi ích của mình, thì
không phải tình trạng thực hiện công việc không có ủy quyền mà chính là tình
trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật sẽ được xác lập.
Nhưng
điều đó không có nghĩa rằng người thực hiện công việc phải chỉ có ý định thực
hiện công việc vì lợi ích của người khác. Người này cũng có thể đồng thời được
động viên bởi lợi ích của chính mình mà thực hiện công việc. Ví dụ: chủ sở hữu
chung theo phần chủ động sửa chữa tài sản chung mà các chủ sở hữu chung khác
không biết. Luật nói rằng người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực
hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người khác. Ðiều đó chỉ có nghĩa rằng
công việc thực hiện cho người khác phải vì lợi ích của người sau này và người
thực hiện công việc nhận thức rõ điều đó khi thực hiện công việc. Công việc
thực hiện cho người khác vẫn có thể là một phần của chuỗi công việc được thực
hiện vì lợi ích của người khác nữa hoặc của chình người thực hiện công việc đó.
Nói
rằng người thực hiện công việc phải “có ý định” hàm nghĩa rằng người thực hiện
công việc cho người khác phải là người có khả năng nhận thức được hành vi của
mình[36][36].
Người dưới 15 tuổi, người không có năng lực hành vi, người không nhận thức được
hành vi của mình không thể thực hiện công việc mà không có uỷ quyền. Có vẻ như
người bị hạn chế năng lực hành vi cũng không thể tự mình thực hiện công việc vì
lợi ích của người khác mà không có sự cho phép của người đại diện.
Điều kiện đối với người thụ hưởng công việc. Về phần mình, người thụ hưởng công việc phải
hoặc không biết hoặc biết mà không phản đối việc người khác thực hiện một công
việc vì lợi ích của mình. Thông thường, người thụ hưởng công việc không biết;
nhưng nếu biết, thì để có quan hệ thực hiện mà không có uỷ quyền, người này
phải không phản đối. Cần nhấn mạnh rằng không phản đối không nhất thiết có
nghĩa là im lặng.
Có
trường hợp người thụ hưởng không phản
đối chỉ vì không thể bày tỏ ý chí phản đối một cách hữu hiệu, ví dụ, người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi. Khi đó, chính thái độ của người đại
diện quyết định tính chất của mối quan hệ giữa người thực hiện công việc và
người có công việc được thực hiện. Còn lại trường hợp người không nhận thức
được hành vi của mình một cách thường xuyên, nhưng lại không có người đại diện.
Nói chung, bất kỳ người nào bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người
khác đều phải được bảo vệ; hẳn rồi sẽ có những quy định thích hợp về quyền kiện
cáo vì lợi ích của người bị thiệt hại không nhận thức được hành vi của mình và
không được đại diện.
Trên
nguyên tắc, việc phản đối của người có công việc được thực hiện khiến cho công
việc được coi là trở nên không hữu ích. Nếu người thực hiện công việc bắt đầu
hoặc tiếp tục thực hiện công việc sau khi đã có sự phản đối của người có công
việc được thực hiện, thì người thực hiện công việc không có cơ may được hoàn
lại chi phí mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc; thậm chí, người thực hiện
công việc có thể bị buộc phải đình chỉ thực hiện công việc, và nếu gây thiệt hại
cho người có công việc được thực hiện, thì phải bồi thường. Tuy nhiên, một cách
hợp lý, sự phản đối chỉ có hiệu lực về sau: các công việc được thực hiện vì lợi
ích của đương sự trước khi đương sự phản đối vẫn có tác dụng ràng buộc đương sự
vào quan hệ thực hiện công việc mà không có uỷ quyền. Vả lại, có thể có những
trường hợp mà tính hữu hiệu của việc phản đối cần phải được xem xét lại, do bản
thân sự phản đối tỏ ra không chính đáng.
2. Hiệu lực của tình trạng thực hiện công việc
mà không có ủy quyền
a. Ðối với các bên có liên quan
Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không
có ủy quyền. Người thực hiện công việc mà không có ủy
quyền có những nghĩa vụ quy định tại các Ðiều 600 và 602 BLDS. Người này phải
thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình; phải thực hiện
công việc như công việc của chính mình; nếu biết được ý định của người có công
việc, thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó; phải báo cho người có
công việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc, nếu có yêu
cầu, trừ trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc
không có ủy quyền không biết nơi cư trú của người đó; trong trường hợp người có
công việc được thực hiện chết, thì người thực hiện công việc không có ủy quyền
phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện
của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận; trong trường hợp có lý do
chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục
đảm nhận công việc, thì phải báo cho người có công việc được thực hiện, người
đại diện hoặc người thân của người này hoặc có thể nhờ người khác thay mình đảm
nhận việc thực hiện công việc.
Ta thấy
rằng trong chừng mực nào đó, trách nhiệm của người thực hiện công việc mà không
có ủy quyền còn nặng hơn trách nhiệm của người được ủy quyền: người sau này có
thể đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng ủy quyền mà không cần biết công việc
(dở dang) sẽ được ai thực hiện tiếp tục.
Khi
người thực hiện công việc mà không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi
thực hiện công việc, thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được
thực hiện; nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt
hại trong khi thực hiện công việc, thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc,
người đó có thể được giảm mức bồi thường.
Nghĩa vụ của người có công việc được thực hiện. Theo BLDS Ðiều 601, người có công việc được
thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy
quyền bàn giao công việc và phải thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực
hiện công việc không có uỷ quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trong
trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình. Mặt khác,
người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không
có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi
cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối
(cùng điều luật). Có thể tin rằng nếu người thực hiện công việc không có ủy
quyền chịu thiệt hại do thực hiện công việc đó, thì người có công việc phải bù
đắp các tổn thất ấy, như thể đó là thiệt hại của chính mình.
Một
cách hợp lý, người có công việc được thực hiện phải chịu trách nhiệm thực hiện
những nghĩa vụ mà người thực hiện công việc không có ủy quyền xác lập, trong
khuôn khổ thực hiện công việc đó.
b. Ðối với người thứ ba
Quản lý công khai và quản lý không công khai. Luật viết không có quy định về hiệu lực của
việc thực hiện công việc không có ủy quyền đối với người thứ ba. Tuy nhiên, có
thể nghĩ rằng nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền xác lập nghĩa vụ
với người thứ ba mà không công khai tình trạng thực hiện công việc vì lợi ích
của người khác, thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tự mình
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ đó đối với người thứ ba. Người có
công việc được thực hiện, trong trường hợp này, phải thanh toán cho người thực
hiện công việc không có ủy quyền các chi phí mà người sau này đã bỏ ra để thực
hiện công việc, nhưng, tất nhiên, vẫn với điều kiện công việc được thực hiện vì
lợi ích của người đó.
Nếu
người thực hiện công việc không có ủy quyền, khi xác lập nghĩa vụ với người thứ
ba, nói rõ rằng mình chỉ giao dịch vì lợi ích của người khác, thì người có công
việc được thực hiện sẽ bị ràng buộc vào nghĩa vụ đó một cách trực tiếp, như
người ủy quyền. Song, để người có công việc được thực hiện thực sự bị ràng
buộc, điều cần thiết là người này phải không phản đối sự đại diện mặc nhiên của
người thực hiện công việc. Người thứ ba, về phần mình, tất nhiên là có thể bỏ
ngoài tai lời khai đó và cứ coi người trực tiếp giao dịch với mình như là người
thực sự có nghĩa vụ.
Yêu cầu bảo vệ trật tự xã hội và đạo đức xã
hội. Suy cho cùng, tất cả mọi nghĩa vụ đều do
luật tạo ra: nghĩa vụ trong hợp đồng do luật tạo ra phù hợp với ý chí của những
người giao kết hợp đồng; nghĩa vụ ngoài hợp đồng do luật tạo ra ngoài ý chí của
những người có liên quan. Có những trường hợp khi tạo ra nghĩa vụ, luật không
quan tâm đến mối liên hệ giữa nghĩa vụ và ý chí của những người có liên quan:
đơn giản, nghĩa vụ phải được xác lập bởi điều đó cần thiết cho việc duy trì
trật tự xã hội, duy trì đạo đức xã hội và nhất là phù hợp với lẽ công bằng. Ví
dụ: nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi dưỡng con chưa thành niên; nghĩa vụ cấp dưỡng sau
khi ly hôn. Loại nghĩa vụ này có chung một đặc điểm: được xác lập sau một sự
kiện và, trong chừng mực nào đó, được coi như hệ quả của sự kiện đó; nhưng khác
với các nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng được phân tích ở trên, nghĩa vụ loại
này mang tính chất của hệ quả đạo đức nhiều hơn là của hệ quả vật chất của sự
kiện làm phát sinh ra nó.
[1][1] Giffard và Villers, Droit romain et ancien droit français- Les
obligations, Dalloz, 1967, số 29 và kế tiếp.
[3][3] Việc coi tặng cho là
một hợp đồng thực ra là kết quả của một quá trình cân nhắc kéo dài của luật
học. Trong quan niệm La mã truyền thống, chỉ có thể nói đến hợp đồng một khi cả
hai bên đều có những lợi ích nhắm tới khi quyết định tham gia vào quan hệ kết
ước, cũng giống như trong quan niệm Anh-Mỹ.
[4][4] Lợi ích của sự phân
biệt hai loại hợp đồng này được ghi nhận rõ nét trong trường hợp hợp đồng bị
tuyên bố vô hiệu hoặc bị huỷ bỏ. Việc
huỷ bỏ một hợp đồng thực hiện tiếp liền trong thời gian chỉ phát sinh hiệu lực
về sau: nếu hợp đồng đã thực hiện được một phần, thì phần đã được thực hiện
phải được chấp nhận. Một hợp đồng thuê
tài sản đang được thực hiện (người thuê đang sử dụng tài sản) thì bị huỷ bỏ;
người thuê không thể “hoàn trả” cho
người cho thuê thời gian sử dụng tài sản trước đó.
[5][5] Về việc giao kết hợp
đồng thông qua vai trò của người đại diện: xem tiếp phần nói về Đại diện.
[6][6] Có lẽ các tác giả BLDS
chỉ muốn nói rằng ngườI không có năng lực hành vi thì không có quyền tự mình
xác lập giao dịch.
[7][7] Nhưng tất nhiên, ý chí
nội tâm đó phải là kết quả của sự thống nhất ý chí của các bên, là ý chí chung
trong nội tâm của các bên.
[8][8] Mazeaud, Leçons de droit civil, t.II, q.4,
Montchrestien,1991, số 161 và kế tiếp; Malaurie và Aynès, Droit civil- Les obligations, Cujas, 1994, số 402 và kế tiếp;
Bénabent, Droit civil- Les obligations,
Montchrestien, 1995, số 76 và kế tiếp.
[13][13]
Người đe
doạ cũng phải chịu biện pháp chế tài “tịch thu tài sản” như người lừa dối: xem
lại Lừa dối.
[14][14]
Đề nghị
giao kết hợp đồng là một cam kết đơn phương và, trong những trường hợp đặc thù,
có thể được coi như là một căn cứ xác lập nghĩa vụ, độc lập với chính hợp đồng
hình thành từ đề nghị đó: xem tiếp Cam kết đơn phương
[15][15]
Trong
trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nào đó do pháp luật
quy định, thì nộI dung của đề nghị giao kết phải được chuyển tả một cách trọn
vẹn trong hợp đồng chính thức một khi đề nghị được chấp nhận hợp lệ.
[16][16]
Ngay nếu
như số ứng viên hội đủ điều kiện bằng hoặc thấp hơn số người cần tuyển, thì
người có nhu cầu sử dụng lao động cũng không bị buộc phải tuyển dụng tất cả các
ứng viên đó. Ứng viên đủ điều kiện mà không được tuyển dụng trong trường hợp
này, về phần mình, không có quyền kiện vớI lý do người có nhu cầu sử dụng lao
động đã không giũ lời cam kết của mình trong thông báo tuyển dụng, bởi thực ra,
không có một cam kết nào được xác lập theo thông báo đó.
[17][17]
Bổ
khuyềt, do quy tắc này được thiết lập để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
người uỷ quyền mà không mang tính chất trật tự công cộng, không gắn với lợi ích
chung: một người được pháp luật thừa nhận có một quyền thì có quyền từ chối
thực hiện quyền đó, miễn là việc từ chối đó không gây phương hại cho trật tự
công cộng và không ảnh hưởng đến lợi ích chung.
Về phương diện phân tích luật viết, giải pháp
trên coi như là hệ quả của việc vận dụng nguyên tắc của phương pháp phân tích
câu chữ, theo đó, “khi các lý lẽ để áp dụng luật không tồn tại, thì không áp
dụng luật”: xem Phương pháp nghiên cứu và phântích luật viết, Khoa Luật - Đại
học Cần Thơ, 2000, tr.
[18][18]
Không thể
gọi là khách quan, thoả thuận theo đó giá bán đối với một món hàng trong một
hợp đồng cung ứng dài hạn là giá do người bán niêm yết theo tứng thời kỳ.
[19][19]
Trong
trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là trả một số tiền, thì không thể có chuyện
hợp pháp hay không hợp pháp. Còn tính hợp pháp của nguồn gốc của số tiền đó lại
là vấn đề khác.
[20][20]
Trong
luật Việt Nam hiện hành, hợp đồng vô hiệu cục bộ là một phát hiện của học
thuyết pháp lý và có vẻ là một phát hiện nằm ngoài dự kiến của người làm
luật.
[21][21]
Thông
thường, đây cũng là những trường hợp mà người làm luật không dự kiến biện pháp
chế tài đối với việc vi phạm điều kiện được luật đặt ra cho việc giao kết một
hợp đồng nào đó. Ví dụ, bán phần quyền trong khối tài sản thuộc sở hữu chung
theo phần mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của các chủ sở hữu chung khác;
bán nhà ở đang cho thuê mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của người thuê;…
[22][22]
Ví dụ,
các bên giao kết hợp đồng mua bán theo đó người mua cam kết mua với điều kiện
vay được số tiền cần thiết để mua; người mua, khi giao kết hợp đồng vay tiền,
lại thoả thuận với người cho vay rằng hợp đồng vay sẽ bị huỷ bỏ một cách đương
nhiên, nếu người vay không mua được tài sản cần mua. Khi đó, nều hợp đồng mua
bán vô hiệu, thì hợp đồng vay không có hiệu lực; ngược lại, nếu hợp đồng vay vô
hiệu, thì hợp đồng mua bán cũng không có hiệu lực.
[23][23]
Trái lại,
“người có nghĩa vụ sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu người có quyền mong muốn điều đó”
là một câu nói có đầy đủ ý nghĩa. Vậy, việc để cho điểu kiện tuỳ thuộc vào ý
chí của người có quyền yêu cầu không ảnh hưởng đến giá trị của điều kiện.
[24][24]
Trong
điều kiện không có quy định rõ ràng của luật viết, ta nói rằng người đại diện
của người chưa thành niện hoặc mất năng lực hành vi cũng có quyền xác lập nghĩa
vụ bằng cam kết đơn phương dưới danh nghĩa và vì lợi ích của người được đại
diện, miễn là việc đưa ra cam kết đơn phương được thực hiện phù hợp với các quy
định liên quan đến việc xác lập giao dịch (nói chung) dưới danh nghĩa của
ngườii được đại diện và với các quy định riêng về điều kiện có giá trị của cam kết
đơn phương như là căn cứ xác lâp nghĩa vụ.
[25][25]
BLDS hiện
hành coi trách nhiệm dân sự như là hệ quả của việc vi phạm một nghĩa vụ dân sự
đã được xác lập trước (BLDS Điều 308 khoản 1). Với quan niệm đó thì trách nhiệm
dân sự có vẻ như hoàn toàn phân biệt với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Đúng hơn, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là căn cứ xác lập nghĩa vụ; và nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nếu vị vi phạm, sẽ là căn cứ xác lập trách
nhiệm dân sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật, về phần mình, lại
có thói quen dựa vào các quy định liên quan đến điều kiện xác lập trách nhiệm
dân sự trong BLDS, để để quy trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
[27][27]
Nghĩa vụ
chính trong hợp đồng vận chuyển hành khách là nghĩa vụ vận chuyển hành khách
đến nay; còn nghĩa vụ bảo đảm an toàn chỉ là hệ quả của nghĩa vụ vận chuyển:
người vận chuyển không thể trả một hành khách khoẻ mạnh lúc bước lên phưong
tiện vận chuyển trong tình trạng sống dở chết dở tại nơi đến, trừ trường hợp
bất khả kháng.
[28][28] Khi thảo luận về các dự án luật
có nhắc đến hộ gia đình, hầu hết các đại biểu Quốc hội đều gặp nhau ở nhận định
về những khó khăn trong việc xác định thành phần cấu tạo của hộ gia đình. Không
có thành phần cấu tạo rõ ràng, hộ gia đình trở thành một chủ thể mập mờ trong
thực tiễn giao dịch.
[29][29]
Vậy có
nghĩa rằng nếu người giám hộ không có lỗi mà người được giám hộ cũng không có
tài sản, thì người bị thiệt hại không thể được bồi thường. Từ giải pháp này, ta
có khái niệm “thiệt hại do rủi ro”. Trong trường hợp người bị thiệt hại được
bảo hiểm, thì loại thiệt hại này trở thành một rủi ro đối với công ty bảo hiểm,
bởi công ty bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại mà không có cơ
may thu hồi lại được số tiền đã chi ra.
[30][30]
Các điều
613 và 614 BLDS, khi nói về thiệt hại của người bị mất nguồn thu nhập từ do
tính mạng, sức khoẻ của người khác bị xâm hại, chỉ đề cập đến người được cấp
dưỡng. Trên thực tế, người sống lệ thuộc có thể là người được chăm sóc, được
nuôi dưỡng hoặc được cấp dưỡng. Tuy
nhiên, một người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng vẫn tiếp tục có nghĩa vụ đó
ngay cả trong trường hợp khả năng, điều kiện thực hiện nghĩa vụ bị giảm sút,
thậm chí không còn; trong khi người được cấp dưỡng chỉ có quyền yêu cầu cấp
dưỡng phù hợp với khả năng đáp ứng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vậy, nếu
việc cấp dưỡng bị ảnh hưởng xấu do người có nghĩa vụ cấp dưỡng giảm sút hoặc
mất khả năng cấp dưỡng vì tính mạng, sức khoả bị người khác xâm hại, thì người
được cấp dưỡng có quyền trực tiếp yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường
thiệt hại đó.
Riêng trong trường hợp khả năng cấp dưỡng bị
giảm sút hoặc không còn do giảm hoặc mất thu nhập vì danh dự, nhân phẩm của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng bị xâm hại, thì lại không có quy định về quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại của người được cấp dưỡng. Song, ta vẫn có thể thừa
nhận rằng người được cấp dưỡng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường
hợp này, nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
Dẫu sao, khó có thể tin rằng việc chăm sóc,
nuôi dưỡng của một người đối với một người khác có thể tiếp tục được thực hiện
trong những điều kiện bình thường một khi khả năng, diều kiện chắm sóc, nuôi
dưỡng đã thay đổi theo chiều hướng xấu, do người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng bị xâm hại về tài sản, thính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm.
Khi đọc BLDS Điều 616 khoản 2, thì người ta
lại phát hiện rằng những người soạn thảo các Điều 613 và 614 đã coi “cấp dưỡng”
như là một từ đồng nghĩa với “nuôi dưỡng”.
[31][31]
Một người
có người yêu bị xâm hại không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại tinh thần mà
mình phải chịu do người yêu mất.
[32][32]
Riêng
trong trường hợp một người bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì cũng chỉ
người này mới có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong thực
tiễn, có thể hình dung một giả thiết như sau: một cầu thủ bóng đá bị báo chí tố
cáo đã có hành vi móc ngoặt, dàn xếp tỉ số trong nhiều trận đấu và bị bạn bè xa
lánh; mẹ của cầu thủ ấy, một giáo viên
trung học, do con mình bị các phương tiện truyền thông bêu xấu, thường
xuyên phải nhận những cái nhìn đấy nghi
kỵ, mỉa mai của đồng nghiệp và học sinh.
Giả sử sau này cầu thủ ấy được minh oan; trong khung cảnh của luật viết,
chỉ có cầu thủ ấy có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần; còn người
mẹ…
[33][33]
Một người
leo núi chẳng may trượt chân ngã, sau đó bị hàng loạt khối đá lở rơi xuống đề
lên và chết. Rõ ràng là có thiệt hại trong trường hợp này, nhưng không ai có
lỗi. Còn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do rủi ro, có thể được quy kết cho
công ty bảo hiểm, là chuyện khác.
[34][34]
Trong
ngôn ngữ thông dụng, trường hợp của người nông dân trong giả thiết được gọi là
trường hợp “hoạ vô đơn chí”.
[35][35]
Luật
không phân biệt những người cùng cộng tác với nhau trong việc gây thiệt hại với
những người tình cờ cùng gây ra một thiệt hại. Có vẻ như nguyên tắc được thừa
nhận trong luật thực định ViệtNam là: một khi thiệt hại có nguồn gốc từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, thậm chí độc lập với nhau, thì những người gây thiệt hại
phải liên đới chịu trách nhiệm với người bị thiệt hại. Loại trách nhiệm này
không giống như trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng:
xem tiếp
[36][36] Ở Pháp, một số ý kiến
cho rằng người không có năng lực hành vi cũng có thể là người thực hiện công
việc mà không có uỷ quyền: Mazeaud, Leçons de droits civil, T.2, q.2,
Montchrestien, 191, số 676.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét