CHẾ ĐỘ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ, một khi được xác lập, chịu sự chi
phối của một chế độ chung. Luật không thiết lập sự phân biệt giữa các nghĩa vụ
tuỳ theo nguồn gốc xác lập để xây dựng các quy tắc chi phối quan hệ giữa các
chủ thể.
Như đã nói, quan hệ nghĩa vụ được thiết lập
giữa một bên là người có quyền yêu cầu một điều gì đó và bên kia là người có
nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Trong trường hợp điển hình, sự đáp ứng được thực
hiện và yêu cầu được thoả mãn. Có trường hợp trước khi được thực hiện, quan hệ
nghĩa vụ có sự thay đổi về chủ thể - chủ thể có, chủ thể nợ hoặc cả hai. Pháp
luật cũng dự kiến những tình huống trong đó, nghĩa vụ chấm dứt, dù không được
thực hiện.
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Ðịnh
nghĩa. Thực
hiện nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ đáp ứng đúng và đầy đủ các yêu cầu của
người có quyền: chuyển quyền sở hữu, giao tài sản, trả nợ,... Thực hiện nghĩa
vụ, hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ được hoàn thành, .là một trong những cách
thức chấm dứt nghĩa vụ được dự liệu trong luật viết hiện hành (BLDS Ðiều 380
khoản 1). Song, trường hợp nghĩa vụ được hoàn thành là trường hợp duy nhất mà
trong đó nghĩa vụ chấm dứt sau khi đã được thực hiện đúng và đầy đủ. Trong tất
cả các trường hợp khác, nghĩa vụ được chấm dứt mà chưa được thực hiện xong thậm
chí, có thể không bao giờ được thực hiện.
Việc thực hiện nghĩa vụ có thể tự nguyện nhưng
cũng có thể không tự nguyện. Luật viết có những quy tắc chung cho tất cả các
trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, luật cũng có những quy tắc riêng
được áp dụng cho trường hợp nghĩa vụ được thực hiện một cách không tự nguyện.
I - Các bên trong quan hệ thực hiện nghĩa vụ
1.
Trường hợp tổng quát
Người
thực hiện nghĩa vụ. Người
thực hiện nghĩa vụ có thể là người có nghĩa vụ, nhưng cũng có thể là người thứ
ba. Một cách hợp lý, nếu có một người nào đó sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của người
có quyền, thì người này không thể từ chối. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mà
khái niệm “đáp ứng yêu cầu của người có quyền” được xây dựng không chỉ bằng các
yếu tố khách quan (nội dung của sự đáp ứng) mà còn cả bằng các yếu tố chủ quan
(nhân thân hoặc phẩm chất nghiệp vụ của người đáp ứng hoặc cả hai). Một người
thuê một họa sĩ vẽ chân dung cho mình vì tin rằng chỉ có người họa sĩ này mới
có thể thực hiện được cho mình một bức chân dung mà mình mong muốn. Người thuê
trong trường hợp này có quyền từ chối đề nghị của một người khác về việc thực
hiện nghĩa vụ thay người họa sĩ đã giao kết hợp đồng.
Giả sử người thứ ba thực hiện nghĩa vụ và
người có quyền yêu cầu cũng chấp nhận việc thực hiện đó, thì người thực sự có
nghĩa vụ không còn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu
cầu; tuy nhiên, người có nghĩa vụ không nhất thiết không còn trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ một cách tuyệt đối. Trên nguyên tắc, người thứ ba thực hiện nghĩa
vụ thay thế người có quyền yêu cầu và trở thành người có quyền này đối với
người thực sự có nghĩa vụ. Nếu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ có ý định tặng
cho đối với người thực sự có nghĩa vụ, thì việc tặng cho sẽ có tác dụng của một
vụ bù trừ nghĩa vụ; còn nếu người thứ ba không có ý định đó, thì sẽ trở thành
người thế quyền của người có quyền yêu cầu và người thực sự có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ đối với người này.
Người
tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ. Người
tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, trên nguyên tắc, phải là người có quyền yêu cầu
hoặc người đại diện của người này (người giám hộ, người được ủy quyền,...).
Thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người không có quyền, người có nghĩa vụ, vẫn
còn nghĩa vụ, phải thực hiện nghĩa vụ (một lần nữa) đối với người có quyền yêu
cầu và có quyền yêu cầu người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ lần thứ nhất hoàn
lại cho mình khoản lợi mà người sau này được hưởng do việc thực hiện nghĩa vụ
đó.
Người có quyền yêu cầu không nhất thiết là
người đã tham gia vào việc xác lập quan hệ nghĩa vụ. Có người trở thành người
có quyền yêu cầu do hiệu lực của việc di chuyển di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Có người trở thành người có quyền yêu cầu do được chuyển nhượng
quyền yêu cầu, có hoặc không có đền bù.
Quyền
yêu cầu biểu kiến. Trong
luật của Pháp, việc thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của một người không có quyền
yêu cầu vẫn có thể có tác dụng giải phóng người có nghĩa vụ trong một số trường
hợp mà người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ là người có quyền yêu cầu biểu kiến.
Một trong những ví dụ về quyền yêu cầu biểu kiến được xây dựng như sau: người
có quyền yêu cầu chết; người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho người thừa kế
theo pháp luật của người chết; ít lâu sau, một người khác xuất trình một di
chúc hữu hiệu do người chết để lại, theo đó, người thừa kế theo pháp luật đã bị
truất quyền hưởng di sản. Tất nhiên, nếu không thực sự có quyền yêu cầu, người
có quyền yêu cầu biểu kiến không thể thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ; nhưng
dẫu sao, người có nghĩa vụ vẫn được giải phóng; người có quyền yêu cầu biểu
kiến, ở trong tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật đối
với người thực sự có quyền yêu cầu và do đó phải hoàn trả cho người sau này
những gì mình đã nhận nhầm.
Có thể tin rằng giải pháp được chấp nhận trong
luật của Pháp liên quan đến quyền yêu cầu biểu kiến cũng được thừa nhận trong
luật Việt Nam, dù luật viết không có quy định gì liên quan. Tuy nhiên, các điều
kiện áp dụng lý thuyết về quyền yêu cầu biểu kiến không được xác định rõ ràng
trong khung cảnh của luật thực định[1][1].
Điều chắc chắn: người có quyền yêu cầu biểu kiến phải ngay tình; còn những điều
kiện khác…
2.
Trường hợp có nhiều chủ thể của quan hệ nghĩa vụ
a.
Nghĩa vụ theo phần
Mỗi
người có một phần nghĩa vụ riêng rẽ. Nếu mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định
và riêng rẽ với nhau, thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình
(BLDS Ðiều 303). Sau khi phần nghĩa vụ riêng rẽ được thực hiện xong, nghĩa vụ
coi như chấm dứt đối với người thực hiện, dù những người khác có nghĩa vụ chưa
thực hiện (thậm chí không thực hiện)
phần nghĩa vụ của họ đối với người có quyền yêu cầu.
Phân chia nghĩa vụ theo phần là quy tắc thuộc
luật chung được áp dụng một cách đương nhiên trong trường hợp nhiều người có
cùng một nghĩa vụ đối với một người, nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp
luật không có quy định khác[2][2].
Tuy nhiên, quy tắc này lại rất hiếm khi được áp dụng trong thực tiễn: nếu nghĩa
vụ được xác lập theo ý chí, thì người có quyền yêu cầu thường không quên đòi
hỏi việc thiết lập tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ; nếu nghĩa
vụ được xác lập do hành vi trái pháp luật, thì luật đã quy định rõ về tình
trạng liên can hoặc liên đới giữa những người có nghĩa vụ, như ta sẽ thấy sau
đây.
Ví dụ điển hình về loại nghĩa vụ phân chia
được theo phần được ghi nhận trong trường hợp di sản được phân chia cho những
người thừa kế: mỗi người thừa kế chịu trách nhiệm trả nợ di sản tương ứng với
phần quyền của mình trong khối tài sản có thuộc di sản (BLDS Điều 640 khoản
3).
b.
Nghĩa vụ liên đới
Những
người có nghĩa vụ phải liên đới thực hiện nghĩa vụ. Khi có nhiều người cùng liên đới chịu trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 1). Ta nói
rằng đối với người có quyền yêu cầu, thì giữa những người có nghĩa vụ liên đới
không có sự phân chia nghĩa vụ.
nguồn
gốc của nghĩa vụ liên đới. Nghĩa
vụ liên đới có thể được xác lập theo thoả thuận giữa các bên liên quan hoặc
theo quy định của pháp luật, như đã nói ở trên. Thực ra, nghĩa vụ liên đới còn
có thể phát sinh theo ý chí đơn phương, như trong trường hợp một người lập di
chúc quyết định rằng những người thừa kế phải liên đới trong việc thực hiện
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng một người nào đó.
Người làm luật chủ động thiết lập tình trạng
liên đới giữa những người có nghĩa vụ trong một số trường hợp đặc thù. Ý nghĩa
của sự liên đới pháp định có thể rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của căn cứ
xác lập nghĩa vụ.
Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết
lập theo luật như một cách mà người làm luật suy đoán ý chí đích thực của những
người có nghĩa vụ. Ví dụ, khi nhiều người cùng bảo lãnh cho một người thực hiện
một nghĩa vụ, thì giữa những người bảo lãnh có sự liên đới trong việc thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh (BLDS Điều 369). Thông thường, sự suy đoán của người làm luật
không mang tính áp đặt tuyệt đối: các bên có thể loại bỏ sự suy đoán về tình
trạng liên đới bằng các thoả thuận ngược lại.
Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết
lập theo luật như một biện pháp chế tài đối với những người cùng “chung sức”
gây thiệt hại cho một người khác. Theo BLDS Điều 620, trong trường hợp nhiều
người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người
bị thiệt hại.
Cơ sở
hiện thực của tình trạng liên đới. Học
thuyết pháp lý phương Tây nói rằng tình trạng liên đới giữa những người có
nghĩa vụ được giải thích bằng nghĩa vụ đại diện của người có nghĩa vụ liên đới
cho tất cả những người có nghĩa vụ liên đới. Gọi là “nghĩa vụ”, bởi vì người có
nghĩa vụ liên đới không thể tuỳ ý từ bỏ vai trò đại diện của mình, như một người
được uỷ quyền theo thoả thuận từ bỏ việc uỷ quyền. Do mỗi người có nghĩa vụ
liên đới đại diện cho tất cả những người có nghĩa vụ mà tất cả các giao dịch
tác động đến một người có nghĩa vụ hoặc do một người có nghĩa vụ xác lập sẽ
phát sinh hiệu lực đối với tất cả những người có nghĩa vụ.
Hiệu
lực của tình trạng liên đới. Trong
trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới, thì có quyền yêu
cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán phần nghĩa vụ liên đới của
họ đối với mình (Ðiều 304 khoản 3). Nhắc lại rằng người có nghĩa vụ liên đới
chỉ phải thực hiện “phần nghĩa vụ liên đới của mình” đối với người đã thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ: giữa những người có nghĩa vụ liên đới, quan hệ nghĩa vụ lại
mang tính chất theo phần riêng rẽ, mỗi người có nghĩa vụ liên đới chỉ phải thực
hiện phần nghĩa vụ của mình đối với người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Ta nói
rằng người có nghĩa vụ liên đới có trách nhiệm đóng góp phần của mình vào việc
thực hiện nghĩa vụ. Nhưng nếu một trong số những người có nghĩa vụ liên đới mất
khả năng thanh toán, thì người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mất khả năng thu
nhận phần đóng góp thực hiện nghĩa vụ của người đó ? Nên nghĩ rằng trong trường
hợp này, sự tổn thất phải được chia sẻ giữa những người có nghĩa vụ còn khả
năng thanh toán (kể cả người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ)[3][3],
dù luật viết không có quy định rõ ràng ở điểm này.
Trong trường hợp người có quyền đã chỉ định
một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng
sau đó lại miễn cho người đó, thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện
nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 4).
Bãi bỏ
tình trạng liên đới. Người
có quyền có thể bãi bỏ tình trạng liên đới cho những người có nghĩa vụ liên
đới. Khi đó, những người có cùng nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ riêng rẽ
và nếu, sau khi đã bãi bỏ tình trạng liên đới, người có quyền miễn cho một
người có nghĩa vụ thực hiện phần nghĩa vụ của người sau này, thì những người
còn lại vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ (đã được riêng rẽ hóa) của họ (Ðiều
304 khoản 5).
c.
Nghĩa vụ “liên can”
nguồn
gốc. Nghĩa
vụ liên can (obligation “in solidum”) phát sinh trong khuôn khổ
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, từ việc nhiều người gây ra thiệt hại cho
người khác[4][4].
Tình trạng liên can hình thành trong điều kiện giữa những người cùng gây thiệt
hại cho người khác không hề có sự đồng lòng (rõ ràng hoặc mặc nhiên) trong việc
thực hiện hành vi gây thiệt hại: nếu những người cùng gây thiệt hại cùng hợp
tác (với đầy đủ ý thức về việc mình làm) trong việc gây thiệt hại, thì nghĩa vụ
mang tính chất liên đới. Ví dụ về tình trạng liên can có thể được hình dung như
sau: một người lái xe ô tô trên đường một chiều quá tốc độ cho phép, do tránh
một người đi môtô ngược chiều, lao thẳng lên lề đường và tông phải một người đi
bộ; giữa người lái ôtô và người đi môtô rõ ràng không có sự thông đồng trong
việc gây tai nạn; nhưng cả hai đều có trách nhiệm như nhau trong việc bồi
thường thiệt hại cho người đi bộ.
Luật hiện hành không có quy định riêng về
nghĩa vụ liên can mà chỉ có quy định chung cho cả nghĩa vụ liên can và nghĩa vụ
liên đới có nguồn gốc tư hành vi trái pháp luật, tại BLDS Điều 620. Nói cách
khác, khi xác định trách nhiệm của những người cùng gây thiệt hại cho một người
khác, người làm luật không phân biệt tùy theo có hay không có sự thông đồng
giữa những người gây thiệt hại.
Chế độ
pháp lý. Cũng
như người có nghĩa vụ liên đới, người có nghĩa vụ liên can phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại (Ðiều 620). Thế nhưng, khác với nghĩa vụ liên
đới, nghĩa vụ liên can, trong mối quan hệ nội bộ giữa những người cùng liên
can, được chia sẻ cho mỗi người có nghĩa vụ dựa theo mức độ lỗi của mỗi người
(cùng điều luật); nếu không xác định được mức độ lỗi thì mỗi người có nghĩa vụ
liên can bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau (cùng điều luật). Người có
nghĩa vụ liên can, sau khi thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ có quyền yêu cầu
những người khác có nghĩa vụ liên can thực hiện việc đóng góp cho mình phần
nghĩa vụ mà những người này phải thực hiện. Nếu những người khác có nghĩa vụ
liên can không tự giác thực hiện nghĩa vụ đóng góp, thì người thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ cũng có quyền yêu cầu cưỡng chế thực hiện, theo luật chung.
Cơ sở
hiện thực của nghĩa vụ liên can. Trong
học thuyết pháp lý phương Tây, tình trạng liên can không được xây dựng trên cơ
sở đại diện như tình trạng liên đới. Mỗi người liên can có nghĩa vụ của riêng
mình đối với người có quyền yêu cầu; và chỉ do sự trùng hợp mà tất cả các nghĩa
vụ của những người có liên can có cùng một đối tượng. Chính vì tất cả các nghĩa
vụ liên can có cùng một đối tượng mà nếu một trong số những người có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu, thì tất cả những người khác
có nghĩa vụ liên can cũng được giải phóng. Tuy nhiên, cũng vì không có mối quan
hệ đại diện giữa những người có nghĩa vụ liên can mà việc đốc thúc thực hiện
nghĩa vụ đối với một người chỉ phát sinh hiệu lực đối với người đó; việc người
có quyền yêu cầu từ chối thực hiện quyền yêu cầu đối với một người có nghĩa vụ
liên can cũng chỉ phát sinh hiệu lực đối với người sau này. Bởi vậy, nghĩa vụ
liên can còn được gọi là nghĩa vụ liên đới không hoàn hảo (obligation solidaire imparfaite).
c.
Nghĩa vụ chia được và nghĩa vụ không chia được
Sự khác
biệt giữa nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ không chia được. Trong nghĩa vụ liên đới, đối tượng của nghĩa
vụ có thể được phân chia thành nhiều phần nghĩa vụ nhỏ, nếu người có quyền
muốn; đơn giản, người có quyền có thể yêu cầu bất kỳ người có nghĩa vụ nào thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ cho mình.
Trong nghĩa vụ không chia được (giả sử có
nhiều người cùng có nghĩa vụ), thì mỗi người có phần nghĩa vụ của mình; nhưng
đối tượng của nghĩa vụ lại không thể được chia: mỗi người có nghĩa vụ phải thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ, không phải vì có sự liên đới giữa những người có nghĩa
vụ, cũng không phải vì người này có trách nhiệm thực hiện toàn bộ, mà vì nghĩa
vụ không thể được thực hiện theo phần (Ðiều 307 khoản 1). Giao một vật đặc
định, không làm một việc là các ví dụ về nghĩa vụ không chia được theo phần.
Nguồn
gốc của nghĩa vụ không chia được theo phần. Nghĩa vụ không chia được theo phần thường có
nguồn gốc từ tính chất không thể phân chia của đối tượng của nghĩa vụ. Một vật
đặc định được đem cầm cố; người cầm cố chết và để lại hai người thừa kế theo
pháp luật. Mỗi người thừa kế chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tương ứng
với phần quyền của mình trong khối di sản; tuy nhiên, nghĩa vụ tôn trọng quyền
đối vật của chủ nợ nhận cầm cố là không thể phân chia: mỗi người thừa kế không
chỉ có nghĩa vụ tôn trọng một nửa quyền đối vật đó mà phải tôn trọng toàn bộ
quyền này.
Nghĩa vụ không phân chia được theo phần cũng
có thể có nguồn gốc từ sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Sự
thoả thuận đó có thể rõ ràng hoặc mặc nhiên. Ví dụ về thoả thuận mặc nhiên nhằm
thiết lập tình trạng không thể phân chia của nghĩa vụ có thể được xây dựng như
sau: một người giao kết với hai nhà thầu - A và B - để xây dựng cho mình một
căn nhà, trong đó, B phụ trách việc xây
dựng phần mái nhà và A đảm nhận tất cả những công việc khác. Sự phân công giữa
những người có nghĩa vụ là rõ ràng; nhưng nghĩa vụ chỉ được coi là hoàn thành
một khi căn nhà được xây dựng hoàn chỉnh.
II. Đối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ
Khái
niệm. Ðối
tượng của việc thực hiện nghĩa vụ là sự đáp ứng của người có nghĩa vụ đối với
người có quyền. Ðể có thể nói rằng nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ, thì
sự đáp ứng phải phù hợp với tính chất và phạm vi của nghĩa vụ.
a. Các
quy tắc chung
Tính
chất của nghĩa vụ. Khi
vật phải giao là vật đặc định, thì người có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và
đúng tình trạng như đã cam kết (Ðiều 294 khoản 2); nếu là vật cùng loại, thì
phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận và nếu không có thỏa
thuận về chất lượng, thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình (cùng điều
luật); nếu là vật đồng bộ, thì phải giao đồng bộ (cùng điều luật). Người có
nghĩa vụ trả tiền phải trả đủ tiền (Ðiều 295 khoản 1). Người có nghĩa vụ làm
hoặc không làm một việc phải thực hiện đúng công việc hoặc không được thực hiện
chính công việc không được làm, theo thỏa thuận (Ðiều 296).
Người có nghĩa vụ không được phép tự mình thay
đổi một nghĩa vụ bằng một nghĩa vụ có tính chất khác: người cam kết xây dựng
một công trình, bán một tài sản không thể làm chấm dứt nghĩa vụ của mình bằng
cách trả một số tiền. Trong trường hợp người có quyền đồng ý tiếp nhận một
nghĩa vụ khác thay thế cho nghĩa vụ đã được xác lập, thì ta nói rằng nghĩa vụ
được thực hiện đúng và đầy đủ bằng cách thực hiện nghĩa vụ thay thế.
Phạm vi
của nghĩa vụ. Người
có nghĩa vụ không được phép tự mình chia cắt nghĩa vụ thành nhiều phần để thực
hiện, cho dù nghĩa vụ có thể được chia cắt. Theo BLDS Ðiều 306 khoản 2, nếu
nghĩa vụ phân chia được theo phần, thì người có nghĩa vụ có thể thực hiện từng
phần nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, điều đó chỉ có
nghĩa rằng nếu việc phân chia nghĩa vụ thành nhiều phần để thực hiện không gây
thiệt hại cho người có quyền, thì việc thực hiện nghĩa vụ theo phần mới có thể
được luật chấp nhận trong trường hợp không có thỏa thuận khác. Một người có
nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho một người khác phải trả tiền cấp dưỡng hàng
tháng đầy đủ trong một lần, nếu không có thỏa thuận khác, chứ không thể chia
nghĩa vụ thành 30 phần để thực hiện trong 30 ngày của tháng, dù rõ ràng, nghĩa
vụ trả tiền có thể chia được. Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ chết mà có để
lại nhiều người thừa kế và không có người quản lý chính thức di sản, thì hẳn
những người thừa kế đương nhiên có quyền chia các nghĩa vụ có thể chia được
thành nhiều phần nghĩa vụ tương ứng với phần quyền hưởng di sản của mình để
thực hiện.
b. Một
số trường hợp đặc thù
Nghĩa
vụ trả một số tiền. Nghĩa
vụ trả một số tiền chỉ có thể được thực hiện một khi đối tượng của nghĩa vụ
được xác định bằng một con số nhân với đơn vị tiền tệ được dùng làm phương tiện
thanh toán. Theo BLDS Điều 295 khoản 2, tiền phải trả là Đồng Việt Nam, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Điều đó có nghĩa rằng nếu pháp luật
không có quy định khác, thì số tiền phải trả theo luật Việt Nam được xác định
bằng một con số nhân với Đồng Việt Nam.
Trên nguyên tắc, số tiền phải trả là số tiền
được ghi nhận ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ được xác định, đúng hơn nữa
là ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định. Thông thường, một
khi số tiền phải trả được xác định đầy đủ (tức là bằng một con số nhân với đơn
vị tiền tệ), thì người có nghĩa vụ chỉ phải trả đúng con số đó, không nhiều
hơn. Tuy nhiên, có trường hợp ngoài số nợ gốc, người có nghĩa vụ còn phải trả
một số tiền lãi. Mặt khác, trong điều kiện sức mua của đồng tiền không ổn định,
các bên có thể thoả thuận (hoặc đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, Toà án
có thể quyết định) về việc quy số tiền phải trả thành một số lượng tài sản nào
đó khác có giá trị ổn định (ví dụ vàng, đô la Mỹ). Trong trường hợp thứ hai
này, số tiền phải trả có thể sẽ khác số tiền được xác định ở thời điểm xác định
đối tượng của nghĩa vụ một khi, ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ, giá của tài sản
quy đổi có biến động.
Nghĩa vụ trả tiền có thể được thực hiện bằng
cách chuyển giao tiền mặt. Cũng theo BLDS Điều 295 khoản 2, thì tiền mặt được
chuyển giao phải là tiền Đồng Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Trên thực tế, có rất nhiều vụ mua bán tài sản có giá trị lớn mà nghĩa vụ
trả tiền được thực hiện dưới hình thức chuyển giao một số vàng hoặc đá quý được
quy thành tiền. Ngoài ra, trong điều kiện pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt
Nam còn đang được hoàn thiện, rất nhiều trường hợp nghĩa vụ trả tiền được thực
hiện dưới hình thức chuyển giao ngoại tệ mạnh bằng tiền mặt.
Ở các nước có hệ thống ngân hàng mạnh, việc
thực hiện nghĩa vụ trả tiền thường được thực hiện thông qua các dịch vụ ngân
hàng: chuyển khoản, ngân phiếu, thẻ thanh toán,… [5][5]. Một số nước còn quy định bắt buộc trả tiền
qua ngân hàng trong một số trường hợp giao dịch có liên quan đến các tài sản có
giá trị lớn.
Nghĩa
vụ lựa chọn và nghĩa vụ tuỳ nghi. Trong
quan hệ nghĩa vụ lựa chọn, người có nghĩa vụ có thể cân nhắc giữa những đối
tượng khác nhau của nghĩa vụ và lựa chọn đối tượng thích hợp nhất: giao hiện
vật hoặc giao tiền mặt; trả tiền bằng Đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ;… Việc
cân nhắc, lựa chọn cũng có thể do người có quyền thực hiện, nếu giữa hai bên đã
có sự thoả thuận về quyền lựa chọn của người này.
Trong quan hệ nghĩa vụ tuỳ nghi, nghĩa vụ chỉ
có một đối tượng duy nhất, được xác định hoặc xác định được trước; nhưng người
có nghĩa vụ có thể chủ động thay đổi đối tượng. Cần lưu ý rằng trường hợp nghĩa
vụ mang tính chất tuỳ nghi, thì quyền lựa chọn không thuộc về người có quyền
yêu cầu.
III. Hoàn cảnh thực hiện nghĩa vụ
Thời
điểm thực hiện nghĩa vụ. Thời
điểm thực hiện nghĩa vụ là thời điểm mà nghĩa vụ đến hạn thực hiện. Cần phân
biệt giữa thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ với thời hạn thực hiện nghĩa vụ:
nghĩa vụ đến hạn phải được thực hiện ngay; còn nghĩa vụ được thực hiện trong
một thời hạn là nghĩa vụ có thể được coi là thực hiện đúng, một khi việc thực
hiện xảy ra vào lúc kết thúc thời hạn đó. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ thường do
các bên thỏa thuận, đôi khi có thể do pháp luật quy định (Ðiều 290 khoản 1). Ví
dụ: nhà thầu cam kết xây dựng xong công trình trong 9 tháng; hết tháng thứ 9,
nghĩa vụ (bàn giao công trình) mới được coi là đến hạn thực hiện. Một khi nghĩa
vụ có thời hạn thực hiện, thì người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa
vụ thực hiện nghĩa vụ trước khi đến hạn: chủ công trình không có quyền yêu cầu
nhà thầu tăng nhanh tiến độ xây dựng để kịp bàn giao công trình đúng thời hạn;
người có nghĩa vụ, về phần mình, chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn
nếu có sự đồng ý của người có quyền (Ðiều 290 khoản 2); nếu người có nghĩa vụ
đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và người có quyền đã chấp nhận việc
thực hiện nghĩa vụ, thì nghĩa vụ được xem như đã hoàn thành đúng thời hạn (cùng
điều luật).
Trên nguyên tắc, nghĩa vụ phải được thực hiện
ngay lập tức, nghĩa là có thể được yêu cầu thực hiện ngay lập tức, nếu các bên
không có thỏa thuận về thời hạn và pháp luật không có quy định về thời hạn
(Ðiều 290 khoản 3). “Ngay lập tức” hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ có thể được
thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện bất kỳ lúc nào, nhưng người thực hiện
hoặc người yêu cầu thực hiện phải thông báo cho bên kia biết trước trong thời
gian hợp lý (cùng điều luật).
Nghĩa vụ phải được thực hiện và tiếp nhận thực
hiện ở thời điểm thích hợp. Vi phạm các quy định về thời điểm thực hiện hoặc
tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, người vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự (Ðiều
313 và 314).
Có trường hợp thời điểm thực hiện nghĩa vụ đã
được ấn định (thực hiện ngay lập tức hoặc sau một thời hạn), nhưng người có
nghĩa vụ lại không thể thực hiện ở thời điểm đó. Luật nói rằng trong trường hợp
này người có nghĩa vụ phải thông báo cho người có quyền biết (Ðiều 292); người
có nghĩa vụ được hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu được người có quyền đồng ý; người
có quyền cũng có thể chủ động gia hạn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều 313 khoản 1).
Nghĩa vụ được hoãn hoặc được gia hạn thực hiện vẫn là nghĩa vụ đã đến hạn; bởi
vậy, nếu người có quyền lại có một nghĩa vụ cùng tính chất đối với người có
nghĩa vụ và nghĩa vụ này cũng đến hạn trong thời gian nghĩa vụ kia được hoãn
hoặc được gia hạn, thì giữa hai người phải có sự bù trừ nghĩa vụ.
Ðịa
điểm thực hiện nghĩa vụ. Ðịa
điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận (Ðiều 289 khoản 1). Thông thường,
đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các
bên ấn định như một phần nội dung của hợp đồng. Nếu nghĩa vụ xác lập ngoài hợp
đồng và có nội dung được ghi nhận trong một bản án, thì bản án sẽ xác định nơi
thực hiện nghĩa vụ (thường là tại nơi cư
trú của người có quyền). Trong trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thực
hiện nghĩa vụ, thì địa điểm này được xác định như sau (Ðiều 289 khoản 2): nơi có
bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản; nơi cư trú hoặc trụ
sở của người có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản[6][6].
Thực ra, các nghĩa vụ không làm một việc, do đặc điểm của nghĩa vụ, chỉ có thể
được thực hiện tại nơi cư trú của người có nghĩa vụ. Có lẽ, khi nói đến các
nghĩa vụ có đối tượng không phải là một bất động sản, người làm luật liên tưởng
đến các nghĩa vụ có đối tượng là việc chuyển giao một động sản (một vật hoặc
một số tiền).
IV.
Bằng chứng của việc thực hiện nghĩa vụ
Trách
nhiệm chứng minh. Luật
hiện hành không có quy định liên quan đến trách nhiệm chứng minh việc thực hiện
nghĩa vụ. Tuy nhiên, có thể thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng trong
trường hợp có tranh cãi về việc nghĩa vụ đã hay chưa được thực hiện, thì chính
người có nghĩa vụ mà cho rằng mình đã thực hiện nghĩa vụ, phải chứng minh điều
đó.
Để hỗ trợ người có nghĩa vụ trong việc chứng
minh, luật của Pháp nói rằng nếu người có quyền yêu cầu đã giao lại cho người
có nghĩa vụ chứng từ ghi nhận việc xác lập nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ sẽ
được suy đoán là đã thực hiện xong nghĩa vụ và trách nhiệm chứng minh điều
ngược lại, khi đó, thuộc về người có quyền yêu cầu.
Phương
tiện chứng minh. Luật
hiện hành cũng không có quy định về các phương tiện chứng minh việc thực hiện
nghĩa vụ. Bởi vậy, tất cả các phương tiện chứng minh được thừa nhận trong luật
chung đều có thể được sử dụng (văn bản, người làm chứng, lời thú nhận,...).
Thông thường, khi chuyển giao một số tiền mặt, người chuyển giao thường yêu cầu
người nhận cấp cho mình một biên nhận; thực tiễn xét xử có xu hướng chấp nhận
biện nhận như là bằng chứng thuyết phục về việc thực hiện nghĩa vụ trả
tiền.
Sự khác
biệt giữa nghĩa vụ và bổn phận. Nghĩa
vụ, với tư cách là một khái niệm của luật dân sự, được bảo đảm thực hiện bằng
các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước. Tư tưởng chủ đạo là: người có
quyền phải được đáp ứng đúng và đầy đủ, bằng cách này hay cách khác và dưới
hình thức này hay hình thức khác. Chính ở điểm này mà nghĩa vụ khác với bổn
phận. Vợ, chồng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau và nếu vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa
vụ, thì người còn có quyền yêu cầu sự can thiệp của Nhà nước; trong khi đó, vợ,
chồng có bổn phận chung thủy với nhau, nhưng nếu vơ hoặc chồng không chung
thủy, thì Nhà nước không thể làm gì để bảo vệ người còn lại.
I. Các
biện pháp bảo đảm khả năng thanh toán
1.
Quyền khởi kiện chéo
Tổng
quan. Có
trường hợp người có nghĩa vụ có các quyền về tài sản, nhưng lại không muốn thực
hiện các quyền ấy, bởi vì người này biết rằng nếu mình có làm gì đi nữa, thì
các lợi ích tài sản được tạo ra cũng sẽ phải được dùng để thực hiện các nghĩa
vụ đối với những người có quyền yêu cầu của mình. Thái độ xử sự tiêu cực của
người có nghĩa vụ có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng thực hiện nghĩa vụ của
người này một khi nghĩa vụ đến hạn. Để ngăn ngừa ảnh hưởng đó, luật cho phép
người có quyền yêu cầu thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người
sau này. Quyền kiện để yêu cầu Toà án cho phép thay thế người có nghĩa vụ trong
việc thực hiện các quyền của người này được gọi là quyền khởi kiện chéo. Gọi là
“chéo”, bởi người trực tiếp thực hiện quyền không phải là người trực tiếp có
quyền mà chỉ là người có quyền của người đó.
Luật Việt Nam hiện hành không có quy định
chung về quyền khởi kiện chéo mà chỉ có các quy định cụ thể áp dụng cho một số
trường hợp đặc thù mà người có quyền yêu cầu được phép thay người có nghĩa vụ
thực hiện một hoặc một số quyền nhất định của người sau này[7][7].
Theo Ðiều 238 khoản 2, khi có người yêu cầu
một người trong số các chủ sở hữu chung (theo phần) thực hiện nghĩa vụ thanh
toán, thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh
toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Có thể rút ra từ điều luật đó các quy tắc liên quan đến điều
kiện thực hiện quyền khởi kiện chéo của người có quyền yêu cầu và hiệu lực của
việc thực hiện quyền này, những quy tắc có thể được áp dụng cho các trường hợp
khác theo nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
Điều
kiện. Trong
trường hợp nêu trên, người có nghĩa vụ không thực hiện một hành vi cần thiết
nhằm củng cố khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người có quyền (yêu
cầu chia tài sản mà mình có quyền sở hữu chung theo phần). Về phần mình, người
có quyền có lợi ích trong việc bảo vệ quyền của mình khi can thiệp vào công
việc của người có nghĩa vụ. Ðiều đó cũng có nghĩa rằng nếu người có nghĩa vụ đủ
khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền không được phép can thiệp vào
những công việc đó: sẽ rất vô lý việc chủ nợ phản đối người mắc nợ từ chối yêu
cầu chia ngay một khối tài sản chung trong khi người mắc nợ hoàn toàn đủ sức
trả nợ bằng tài sản sẵn có, thậm chí sẵn sàng để được kê biên.
Mặt khác, có thể thấy rằng quyền yêu cầu chia
tài sản chung là một quyền bình thường, có thể chuyển giao cho người khác cùng
với việc chuyển nhượng phần quyền của đương sự trong khối tài sản chung. Trong một giả thiết khác, ta có một người mắc
nợ có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với một người khác, nhưng lại không chịu thực
hiện quyền đó; khó có thể hình dung được rằng chủ nợ của người này có thể được
pháp luật thừa nhận có quyền thay người này thực hiện quyền yêu cầu cấp dưỡng
đó.
Quyền của người có nghĩa vụ phải là quyền mà
việc thực hiện có tác dụng bảo toàn hoặc củng cố khối tài sản có của người có
nghĩa vụ. Người có quyền yêu cầu của một người cho thuê nhà không thể thay
người có nghĩa vụ để lựa chọn giữa buộc người thuê nhà trả tiền thuê và trục xuất người thuê ra khỏi nhà thuê. Điều
chắc chắn: người có quyền không thể yêu cầu cho phép mình thay thế người có
nghĩa vụ để thực hiện các giao dịch mang tính vật chất thuần tuý mà người sau
này có quyền thực hiện. Ví dụ, chủ nợ không có quyền yêu cầu cho phép mình thay
thế người mắc nợ để tiến hành tu bổ căn nhà của người sau này hoặc chăm sóc
vườn cây của người sau này, với lý do: nếu
nhà không được tu bổ, cây trồng không được chăm sóc thì sẽ người mắc nợ
sẽ không có tài sản nào có giá trị đủ để bảo đảm việc trả nợ.
Cần nhấn mạnh rằng người có quyền chỉ có thể
yêu cầu cho phép mình thực hiện các quyền của người có nghĩa vụ chứ không phải
các quyền của mình. Bởi vậy, người có quyền không thể được ưu đãi hơn người có
nghĩa vụ khi thực hiện các quyền đó. Giả sử khối tài sản chung chưa thể được
phân chia do trước đây có thoả thuận giữa các chủ sở hữu chung về việc duy trì
tình trạng sở hữu chung theo phần trong một thời hạn, thì người có quyền yêu
cầu chỉ có quyền thay người có nghĩa vụ của mình để yêu cầu phân chia tài sản
chung khi hết thời hạn đó.
Cuối cùng, người có quyền yêu cầu chỉ được
phép yêu cầu cho phép mình thay người có nghĩa vụ thực hiện quyền của người sau
này trong trường hợp người sau này không chịu thực hiện quyền của mình. Nếu
người có nghĩa vụ tự mình thực hiện quyền của mình, thì không có lý do gì để
người có quyền thay thế người này trong việc thực hiện quyền đó. Tuy nhiên,
cũng có trường hợp người có nghĩa vụ thực hiện quyền của mình một cách tuỳ
tiện, thậm chí với ý thức làm suy giảm năng lực thanh toán của mình. Trong
trường hợp đó, người có quyền yêu cầu có thể thực hiện một biện pháp khác để
bảo vệ quyền lợi của mình, như sẽ được phân tích dưới đây.
Riêng đối với người có quyền yêu cầu, có vẻ
như người làm luật muốn rằng quyền yêu cầu của người này phải đến hạn thực
hiện: người có quyền yêu cầu sẽ tham gia vào việc phân chia để “nhận tiền thanh
toán”, nghĩa là để được trả nợ. Người chỉ có các quyền yêu cầu có điều kiện
hoặc các quyền yêu cầu chưa đến hạn thực hiện không có quyền khởi kiện
chéo.
Hiệu
lực. Một
khi được thừa nhận có quyền thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của
người sau này, thì người có quyền sẽ đứng vào vị trí của người có nghĩa vụ để
thực hiện các quyền của người sau này. Chủ nợ của một chủ sở hữu chung, khi yêu
cầu phân chia tài sản chung, được quyền tham dự vào việc phân chia.
Cần lưu ý rằng quyền khởi kiện được thừa nhận
cho người có quyền trong những trường hợp trên chỉ có tác dụng vô hiệu hóa hành
vi của người có nghĩa vụ chứ không đem lại cho người có quyền bất kỳ một quyền
ưu tiên nào đối với tài sản sẽ được đưa vào sản nghiệp của người có nghĩa vụ
sau khi hành vi của người có nghĩa vụ bị vô hiệu hóa: phần tài sản được chia sẻ thuộc về khối tài
sản thuộc sở hữu của người mắc nợ và được dùng để bảo đảm thực hiện các nghĩa
vụ của người này theo luật chung. Chính là theo nghĩa đó mà ta hiểu cụm từ
“nhận tiền thanh toán” được ghi nhận tại khoản 2 Ðiều 238 BLDS. Có thể hình
dung: chủ nợ A tham gia vào việc phân chia tài sản chung của người mắc nợ; chia
xong, một số tài sản rơi vào khối sản nghiệp của người mắc nợ và ngay lập tức
các chủ nợ khác ập đến yêu cầu được phép thực hiện quyền đòi nợ của mình trên
các tài sản ấy. Chủ nợ A trong trường hợp này phải chấp nhận chia sẻ cơ may thu
hồi nợ với các chủ nợ khác.
2.
Quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá một giao dịch gian lận
Tổng
quan. Trên
nguyên tắc, người có nghĩa vụ là chủ sở hữu các tài sản của mình và có quyền
định đoạt các tài sản ấy, có hoặc không có đền bù; chủ nợ, dù có thể lo lắng về
hậu quả của những giao dịch đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ của người mắc
nợ, không có quyền can thiệp vào công việc quản lý sản nghiệp của người sau
này.
Tuy nhiên, có trường hợp người có nghĩa
vụ xác lập một giao dịch liên quan đến
tài sản thực sự với ý định là suy giảm, thậm chí làm mất tính hiện thực của khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu đúng là như vậy, thì luật cho phép người
có quyền yêu cầu lên tiếng nhằm ngăn chặn sự gian lận của người có nghĩa vụ đối
với mình. Nếu sự lên tiếng đó có hiệu quả, giao dịch do người có nghĩa vụ xác
lập sẽ bị thủ tiêu.
Cũng giống như đối với quyền khởi kiện chéo,
luật Việt Nam hiện hành không có những quy định tổng quát nhất về quyền kiện
yêu cầu vô hiệu cục bộ một giao dịch gian lận mà chỉ có các quy tắc đặc thù áp
dụng cho những trường hợp đặc thù được luật dự kiến.
- Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều
, trong những trường hợp được pháp luật dự kiến, vợ chồng có quyền chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên, việc chia tài sản chung nhằm mục đích
trốn tránh các nghĩa vụ không được pháp luật công nhận.
- Theo BLDS Điều 645 khoản 1, người thừa kế có
quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Có thể dùng phương pháp phân tích quy nạp để
làm rõ các điều kiện của việc thủ tiêu một giao dịch gian lận trong trường hợp
tổng quát.
Điều
kiện. Cả
trong hai giả thiết được ghi nhận ở trên, nghĩa vụ mà người xác lập giao dịch
muốn trốn tránh hẳn phải là nghĩa vụ tồn tại trước thời điểm xác lập giao dịch[8][8].
Trên nguyên tắc, người sắp trở thành chủ nợ không thể nói rằng người mắc nợ đã
xác lập giao dịch vào hôm trước đó để trốn tránh việc thực hiện một nghĩa vụ
tài sản sẽ được giao kết vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng
một người, biết trước rằng sự phát sinh của một nghĩa vụ tài sản nào đó là chắc
chắn. Nếu đúng là giao dịch được xác lập nhằm lẫn tránh một nghĩa vụ chắc chắn
sẽ được xác lập trong tương lai, thì, một cách hợp lý, người sẽ chắc chắn có
quyền cũng được thụ hưởng biện pháp kiện yêucầu vô hiệu giao dịch gian lận này.
Cũng trong cả hai giả thiết đó, người có nghĩa
vụ xác lập giao dịch (phân chia tài sản chung hoặc từ chối nhận di sản) đều
được thúc gịuc bởi mong muốn làm suy giảm giá trị của khối tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình để việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền trở nên khó thực hiện, thậm
chí không thực hiện được.
Hiệu
lực. Theo
Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 11, việc chia tài sản chung nhằm trốn
tránh các nghĩa vụ tài sản bị vô hiệu. Đối với trường hợp từ chối nhận di sản
nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản của bản thân, luật lại không có quy định cụ
thể về hình thức chế tài; song, có thể tin rằng người làm luật cũng muốn vô
hiệu hoá giao dịch này để trả người giao dịch trở lại tình trạng ban đầu[9][9].
Vấn đề đặt ra là phạm vi các chủ thể chịu sự
tác động của sự vô hiệu trong các trường hợp này rộng đến đâu ? Hỏi cách khác:
sự vô hiệu này có hiệu lực đối với ai ? Tất cả mọi người hay chỉ đối với người
bị kiện và người đi kiện ? Thoạt nghĩ, người ta có thể cho rằng đặt vấn đề như
thế là không hợp lý, bởi sự vô hiệu của một giao dịch, một khi được Toà án phán
xử, phải có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, trên thực tế, có
những giao dịch liên quan đến những tài sản có giá trị lớn trong khi món nợ
phải trả lại có giá trị rất nhỏ. Giả sử người có nghĩa vụ thực sự vừa muốn tẩu
tán tài sản, vừa muốn trút bỏ hoặc tránh nhận lấy gánh nặng của việc quản lý
một khối tài sản lớn, thì việc thừa nhận hiệu lực “bình thường” của sự vô hiệu
có thể không phải là giải pháp tốt nhất. Một người từ chối nhận một di sản lớn;
một chủ nợ nhỏ phản đối; việc từ chối bị vô hiệu hoá; di sản được trao cho
người mắc nợ; một phần nhỏ di sản được dùng để trả món nợ; một phần lớn thuộc
về người mắc nợ, dù người này không muốn nhận lãnh.
Trong luật của nhiều nước, sự vô hiệu trong
trường hợp này chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa người mắc nợ và chủ nợ có yêu
cầu; giao dịch vẫn có giá trị đối với tất cả mọi người khác. Người ta sự vô
hiệu đó là sự vô hiệu cục bộ (nullìté
limìtée) hay sự không đối kháng (inopposabilité).
Bảo đảm
nghĩa vụ của doanh nghiệp bị phá sản. Một khi doanh nghiệp ở ngưỡng của sự phá
sản, thì, trong một vài trường hợp, người điều hành doanh nghiệp có thể nghĩ
đền việc làm thế nào để các tài sản của doanh nghiệp thoát khỏi sự kê biên theo
yêu cầu của các chủ nợ. Luật chủ động dự liệu những biện pháp cần thiết để đối
phó những những thủ đoạn này. Cụ thể, nếu doanh nghiệp chính thức lâm vào tình
trạng phá sản và cần tiến hành tổ chức thanh toán các nghĩa vụ của doanh
nghiệp, thì Chấp hành viên có quyền đề nghị tòa án ra quyết định thu hồi lại
tài sản, giá trị tài sản của doanh nghiệp hay phần chênh lệch giá trị tài sản
của doanh nghiệp, nếu trong 6 tháng trước ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã có những vi phạm sau đây (Luật phá sản
doanh nghiệp ngày 30/12/1993, Ðiều 45 khoản 1):
a - Tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi
hình thức;
b - Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;
c - Từ bỏ quyền đòi nợ đối với các khoản nợ;
d - Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành
nợ có bảo đảm;
đ - Bán các tài sản của doanh nghiệp thấp hơn
thực giá.
Thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hoặc phần
chênh lệch giá trị tài sản có nghĩa rằng giao dịch liên quan phải bị tuyên bố
vô hiệu.
II. Các
biện pháp hữu hiệu hóa việc thanh toán
Trên nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ không
tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền yêu cầu có thể, trong khuôn khổ
pháp luật, làm thế nào đó để buộc người này phải thực hiện. Nguyên tắc có vẻ đơn
giản và dễ áp dụng, nhưng sự việc trên thực tế lại khá rắc rối.
Nghĩa
vụ liên quan đến nhân thân của người có nghĩa vụ. Nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc, nói
chung, không thể được cưỡng chế thực hiện bằng cách buộc người có nghĩa vụ phải
thực hiện: không thể dùng bạo lực (dù là bạo lực có tổ chức của Nhà nước) để
buộc nhà thầu phải thi công, họa sĩ phải vẽ, ca sĩ phải hát, thương nhận không
được cạnh tranh bất chính,...
Nếu nghĩa vụ có thể được thực hiện mà không
cần động đến thân thể của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có
nghĩa vụ không tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện. Ví
dụ, khi người có nghĩa vụ không làm một công việc mà lại làm công việc đó, thì
người có quyền được yêu cầu người có nghĩa vụ phải chấm dứt việc làm đó, khôi
phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại (BLDS Điều 312 khoản 2). Người
xây dựng vi phạm các quy tắc về xây dựng gây thiệt hại cho người láng, thì có
nghĩa vụ phá dỡ phần xây dựng có liên quan; nếu người này không tự giác phá dỡ,
thì người láng giềng có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phá dỡ (áp
dụng khoản 2 Ðiều 312).
Nếu nghĩa vụ chỉ có thể được thực hiện với sự
tham gia của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có nghĩa vụ không
tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người
khác thực hiện thay ngừoi có nghĩa vụ và yêu cầu người có nghĩa vụ hoàn trả chi
phí (Ðiều 312 khoản 1). Khi đó, nghĩa vụ làm một việc chuyển thành nghĩa vụ trả
tiền.
Trong luật của Pháp, nghĩa vụ làm hoặc không
làm một việc còn có thể bị cưỡng chế thực hiện bằng cách phạt vạ (astreinte): cứ mỗi một ngày vi phạm
nghĩa vụ, người vi phạm phải trả một số tiền phạt. Việc tiền phạt chồng chất
theo thời gian có thể khiến người có nghĩa vụ, đến một lúc nào đó, cảm thấy
“ngán ngẩm” và chấp nhận thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, biện pháp phạt vạ không
thể kéo dài vô thời hạn: đến một lúc nào đó, nếu nhận thấy người vi phạm vẫn
“kiên trì” chịu bị phạt chứ không chịu thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án phải
chuyển biện pháp phạt vạ thành biện pháp bồi thường thiệt hại để chấm dứt mối
quan hệ không suôn sẻ giữa các bên. Khi đó, nghĩa vụ làm một việc cũng trở
thành nghĩa vụ trả tiền.
Nghĩa
vụ chuyển một quyền đối với tài sản. Nghĩa vụ chuyển một quyền đối với tài sản,
nếu không được người có nghĩa vụ tự giác thực hiện, thì có thể được có quyền tự
mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện. Cụ thể,
- Nếu tài sản là một vật đặc định, thì người
có quyền có thể yêu cầu xác nhận việc chuyển quyền bằng một bản án hoặc tự mình
tiến hành thủ tục chuyển quyền bằng cách đăng ký (đối với những quyền cần phải
đăng ký), sau đó, yêu cầu cưỡng chế việc giao tài sản cho mình trong khuôn khổ
thủ tục kiện đòi lại tài sản hoặc kiện đòi chấm dứt cản trở đối với việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu;
- Nếu tài sản là vật cùng loại, thì người có
quyền có thể yêu cầu người khác chuyển quyền và giao tài sản cùng loại cho
mình.
Trong trường hợp việc thực hiện nghĩa vụ bằng
hiện vật là không thể được, đặc biệt là do vật không còn, thì nghĩa vụ chuyển
một quyền đối với một tài sản được chuyển thành nghĩa vụ bồi thường tiệt hại,
tức là nghĩa vụ trả một số tiền.
Nghĩa
vụ trả một số tiền. Nghĩa vụ trả tiền (bao gồm cả nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại phát sinh từ việc cưỡng chế thực hiện các nghĩa vụ làm, không
làm một việc hoặc chuyển quyền đối với tài sản) được cưỡng chế thực hiện bằng
cách kê biên và bán các tài sản của người có nghĩa vụ để thanh toán nghĩa vụ.
Việc kê biên được thực hiện theo các quy định chung về tố tụng dân sự. Tài sản
kê biên được bán dưới hình thức đấu giá công khai và số tiền bán, sau khi trừ
chi phí bảo quản, bán đấu giá, được dùng để thanh toán nghĩa vụ cho người có
quyền.
Bất kỳ nghĩa vụ tài sản nào mà có thể được
thực hiện dưới hình thức trả một số tiền, đều được bảo đảm thực hiện bằng toàn
bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người có nghĩa vụ. Với biện pháp bảo đảm này,
trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người
có quyền có thể yêu cầu kê biên bất kỳ tài sản nào được phép kê biên của người
có nghĩa vụ và yêu cầu bán đấu giá tài sản đó để thu nợ.
Cũng chính vì bất kỳ chủ nợ nào cũng có quyền
đối với bất kỳ tài sản nào (kê biên được) của người mắc nợ mà, suy cho cùng,
không có chủ nợ nào được ưu tiên trả nợ. Nếu tất cả các món nợ đều đến hạn, thì
theo luật chung, người mắc nợ sẽ trả nợ cho chủ nợ nào đến trước. Nếu các chủ
nợ đến cùng một lúc và khối tài sản có của người mắc nợ không đủ để trả tất cả
các món nợ, thì các món nợ được trả theo tỷ lệ.
Cá biệt, một số chủ nợ có bảo đảm đối vật, như
chủ nợ nhận cầm cố hoặc nhận thế chấp, có quyền ưu tiên nhận tiền thanh toán so
với các chủ nợ khác, từ tiền bán tài sản được dùng làm vật bảo đảm. Giả sử sau
khi đã dùng hết số tiền bán vật bảo đảm để trả nợ mà nợ vẫn chưa dứt, thì chủ
nợ có bảo đảm trở thành chủ nợ thường và có quyền đối với các tài sản khác của
người mắc nợ, như bao nhiêu chủ nợ thường khác.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ chết và di
sản được đặt dưới sự quản lý chính thức, thì việc trả nợ được tổ chức thực hiện
theo các quy định về trả nợ di sản được quản lý chính thức, tại BLDS Điều
686.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ là doanh
nghiệp ở trong tình trạng phá sản, thì việc xác định thừ tự ưu tiên trả nợ được
thực hiện theo Luật phá sản doanh nghiệp.
Lưu
thông nghĩa vụ
Các nghĩa vụ có tính chất tài sản mà không gắn
liền với nhân thân của người có quyền hoặc của người có nghĩa vụ có thể được
thực hiện hoặc được tiếp nhận bởi một người không phải là người có nghĩa vụ đầu
tiên hay người có quyền đầu tiên. Luật cho phép, trong những trường hợp đặc
thù, người có nghĩa vụ hoặc người có quyền yêu cầu có thể được thay đổi.
I. Thay đổi người có quyền yêu cầu
1.
Chuyển giao quyền yêu cầu
Ðịnh
nghĩa.
Chuyển giao quyền yêu cầu là việc người có quyền yêu cầu một người khác thực
hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền yêu cầu đó cho một người thứ ba (gọi là người
thế quyền), do hiệu lực của một thỏa thuận giữa người có quyền và người thứ ba
đó: một loại hợp đồng mua bán hoặc tặng cho có đối tượng là một quyền yêu cầu.
Bằng việc chuyển giao quyền yêu cầu, người có quyền rút ra khỏi quan hệ nghĩa
vụ; người được chuyển nhượng trở thành người có quyền yêu cầu; còn tình trạng
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ không thay đổi. Quyên yêu cầu được chuyển giao
có thể đã đến hạn hoặc chưa đến hạn, thậm chí có thể là quyền yêu cầu có điều
kiện.
a. Điều
kiện
Đối
tượng. Tất
cả các quyền yêu cầu đều có thể được chuyển giao , trừ những quyền yêu cầu sau
đây (Ðiều 315 khoản 1):
- Quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân của
người có quyền, kể cả yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
- Quyền mà các bên xác lập có thỏa thuận không
được chuyển giao cho người khác (trừ trường hợp chuyển giao bằng con đường thừa
kế);
- Những quyền yêu cầu khác mà pháp luật quy
định không được chuyển.
Thực ra, ngoài BLDS, pháp luật hiện hành lại
chưa quy định rõ ràng về những quyền yêu cầu không thể được chuyển giao. Tuy
nhiên, có nhìn nhận, theo đạo lý, tính chất không thể chuyển nhượng (trừ trường
hợp được chuyển giao bằng con đường thừa kế) của một số quyền tài sản: quyền
yêu cầu được bồi thường chiến tranh,
Thủ tục. Việc
chuyển giao quyền yêu cầu có thể được giao kết bằng văn bản hoặc bằng miệng
(Ðiều 316). Trong trường hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao quyền yêu
cầu phải được thể hiện bằng văn bản, có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc
chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền hoặc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, thì phải tuân theo các quy định đó (cùng điều luật).
b. Hiệu
lực của việc chuyển giao quyền yêu cầu.
Việc chuyển giao quyền yêu cầu có tác dụng
thay đổi người có quyền yêu cầu; còn bản thân quyền yêu cầu vẫn tồn tại với đầy
đủ các đặc điểm về nội dung. Ðặc biệt, nếu quyền yêu cầu được bảo đảm thực hiện
(bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh), thì người thế quyền cũng được
hưởng các biện pháp đó (Ðiều 319). Người chuyển giao phải bảo đảm về sự tồn tại
của tài sản hay, đúng hơn, của các quyền đối với tài sản (đối với quyền yêu cầu
mà mình chuyển giao); nhưng người chuyển giao không có trách nhiệm bảo đảm về
khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác (Ðiều 318).
Thông
báo cho người có nghĩa vụ. Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông
báo cho người có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu
(Ðiều 315 khoản 2). Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của
người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác (cùng điều luật).
Thực ra, nếu người chuyển giao quyền yêu cầu
không thông báo cho người có nghĩa vụ, thì việc chuyển giao quyền yêu cầu được
giao kết đúng luật vẫn có giá trị và vẫn phát sinh hiệu lực giữa hai bên giao
kết; nhưng người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ cho người thế
quyền chừng nào còn chưa được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều
320 khoản 1). Riêng trong trường hợp việc chuyển giao quyền yêu cầu được thể
hiện bằng văn bản, nếu người thế quyền không xuất trình được văn bản chuyển
giao quyền, thì người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ (cùng điều
luật). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu người thế quyền xuất trình được văn bản chuyển
giao quyền yêu cầu, thì người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn,
dù không được người có quyền yêu cầu thông báo bằng văn bản.
Theo khoản 2 Ðiều 320, trong trường hợp người
có nghĩa vụ không được báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện
nghiîa vụ đối với người chuyển giao quyền, thì người thế quyền không được yêu
cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình (Ðiều 320 khoản 2). Hẳn
điều luật này chỉ áp dụng đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết
bằng miệng: ta đã biết rằng nếu việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết
bằng văn bản, thì người thế quyền có xuất trình văn bản cho người có nghĩa vụ
để hữu hiệu hóa việc chuyển giao quyền mà không cần để thủ tục thông báo của
người chuyển giao quyền. Nếu người thế quyền đã xuất trình văn bản, thì người
có nghĩa vụ mà thực hiện nghĩa vụ cho người chuyển giao quyền sẽ phải thực hiện
nghĩa vụ thêm một lần nữa theo yêu cầu của người thế quyền.
Có thể nghĩ rằng thủ tục thông báo chuyển giao
quyền yêu cầu cho người có nghĩa vụ còn mang ý nghĩa công bố việc chuyển giao
quyền đối với người thứ ba chứ không chỉ đối với người có nghĩa vụ: chủ nợ của
người chuyển giao quyền yêu cầu có thể yêu cầu kê biên quyền yêu cầu chừng nào
người chuyển giao còn chưa thông báo cho người có nghĩa vụ, ngay cả trong
trường hợp người thế quyền đã xuất trình văn bản chuyển giao cho người có nghĩa
vụ.
2 - Mua
bán quyền đòi nợ
Khái
niệm. Mua
bán quyền đòi nợ là trường hợp đặc biệt của việc chuyển giao quyền yêu cầu mà
trong đó, đối tượng mua bán là quyền đòi nợ và việc chuyển giao mang đầy đủ
tính chất của một hợp đồng mua bán, nghĩa là bên bán chuyển giao vật (quyền đòi
nợ) còn bên mua trả cho bên bán một số tiền. Việc mua bán quyền đòi nợ (nói
chung, quyền tài sản) được dự liệu tại Ðiều 442 BLDS.
Giao
kết hợp đồng mua bán quyền đòi nợ. Luật
không có quy định đặc biệt về các điều kiện giao kết hợp đồng mua bán quyền đòi
nợ. Ðiều đó có nghĩa rằng các quy định chung về hợp đồng mua bán được áp dụng:
hợp đồng có thể được lập bằng miệng hoặc bằng văn bản, có thể phải được chứng
nhận, chứng thực, đăng ký, nếu pháp luật có quy định. Ðiều quan trọng: khi mua
bán quyền đòi nợ, các bên không cần làm thủ tục thông báo cho người mắc nợ, như
khi chuyển giao quyền yêu cầu.
Hiệu
lực của hợp đồng mua bán quyền đòi nợ. Hợp đồng mua bán quyền đòi nợ có tác dụng
chuyển quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ cho người mua. Thời điểm chuyển quyền
sở hữu là thời điểm mà bên mua nhận được giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu đối
với quyền đòi nợ đó hoặc từ thời điểm đăng ký chuyển giao quyền sở hữu nếu pháp
luật có quy định (Ðiều 442 khoản 3).
Cũng như người chuyển giao quyền yêu cầu,
người bán quyền đòi nợ chỉ phải bảo đảm về sự hiện hữu của quyền đòi nợ chứ
không phải bảo đảm về khả năng thanh toán của người mắc nợ. Tuy nhiên, nếu
người bán đã cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ, thì người
bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ
không trả (Ðiều 442 khoản 2).
3 -
Chuyển quyền yêu cầu trong hoạt động thương mại
Thủ tục
đơn giản. Nếu
tất cả các quyền yêu cầu đều phải được chuyển giao theo các thủ tục như được
phân tích ở trên, thì chắc chắn thương mại không thể phát triển Thực tiễn thương mại ghi nhận một số trường
hợp chuyển quyền yêu cầu theo các thủ tục đơn giản: chỉ cần xuất trình chứng từ
có giá và chứng minh được việc thỏa mãn một số điều kiện, tùy trường hợp, người
có quyền sở hữu đối với chứng từ sẽ được người có nghĩa vụ theo chứng từ coi là
người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ được ghi nhận trong chứng từ đó. Luật
thực định Việt Nam thừa nhận ba loại chứng từ:
- Chứng từ có ghi tên: là loại chứng từ thiết
lập vì lợi ích của người có tên trong các sổ sách ghi nhận việc thực hiện nghĩa
vụ của người có nghĩa vụ. Có thể kể trong số này các trái phiếu, cổ phiếu có
ghi tên. Loại chứng từ này được chuyển nhượng bằng cách tiến hành đăng ký sang
tên từ người chuyển nhượng sang người được chuyển nhượng, trên sổ sách của người
có nghĩa vụ.
- Chứng từ không ghi tên: là loại chứng từ
thiết lập quyền được thanh toán trên cơ sở xuất trình chứng từ cho người có
nghĩa vụ. Có thể dẫn ra: trái phiếu không ghi tên, chèque không ghi tên, cổ
phiếu không ghi tên,...; trong lĩnh vực dân sự, ta có vé số trúng thưởng, vé
xem hát, xem đá bóng... Loại chứng từ này được chuyển nhượng như một động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu, nghĩa là bằng cách trao tay.
- Chứng từ chi trả theo lệnh: là loại chứng từ
ghi nhận quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo lệnh của một người có tên ghi
trên chứng từ. Ví dụ điển hình của loại chứng từ này là các thương phiếu (hối
phiếu và lệnh phiếu). Việc chuyển nhượng loại chứng từ này được ghi nhận bằng
các ghi chép ở ô ký hậu.
4. Thế
quyền yêu cầu
Khái
niệm. Thế
quyền yêu cầu là việc một người thay một người có quyền yêu cầu ở vị trí người
có quyền yêu cầu, sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ.
Người thế quyền, cũng như người thế quyền trong trường hợp được chuyển giao
quyền yêu cầu, trở thành người có quyền yêu cầu. Song, khác với người được
chuyển giao quyền yêu cầu, người thế quyền trong trường hợp này chỉ thay thế
người có quyền trong chừng mực phần giá trị của nghĩa vụ mà người này đã thực
hiện. Ví dụ: A nợ B 100; C trả hộ B 50 với điều kiện A đồng ý để C thay thế A
đòi nợ A; vậy, C thế A trong việc đòi B trả 50; A bảo tồn quyền yêu cầu B trả
50 còn lại. Tình hình sẽ khác đi nếu giữa A và C có sự thỏa thuận theo đó, A
chuyển nhượng quyền đòi nợ đối với B cho C với giá 50: khi đó, bằng việc trả
cho A 50, C trở thành người có quyền yêu cầu đối với toàn bộ số nợ mà B đã giao
kết với A. Việc thế quyền chỉ phát sinh hiệu lực đối với người thế quyền và
người có quyền yêu cầu, bằng việc thực hiện nghĩa vụ; trong khi việc chuyển
giao quyền yêu cầu có hiệu lực đối với hai bên giao kết việc chuyển quyền kể từ
thời điểm giao kết, nếu không có thỏa thuận khác và pháp luật không có quy định
khác. Hơn nữa, việc thế quyền chỉ có giá trị một khi được xác lập cùng một lúc
hoặc trước khi nghĩa vụ được thực hiện: nghĩa vụ được thực hiện (và hoàn thành)
sẽ chấm dứt; tương ứng, quyền yêu cầu được đáp ứng cũng sẽ chấm dứt và không ai
có thể làm cho nó sống lại để chuyển giao cho người thế quyền.
Chế định thế quyền yêu cầu, như được định
nghĩa ở trên, chưa được thiết lập một cách có hệ thống trong luật thực định
Việt Nam. Hiện việc thế quyền yêu cầu chỉ được ghi nhận trong luật cho một vài
trường hợp đặc thù, điển hình là trường hợp bảo lãnh: người bảo lãnh, sau khi
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, sẽ có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh (BLDS Ðiều 372) và được hưởng
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà người nhận bảo lãnh đã được hưởng,
nếu có..
II - Thay đổi người có nghĩa vụ
1 -
Chuyển giao nghĩa vụ
Khái
niệm.
Chuyển nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ chuyển trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
cho một người khác (gọi là người thế nghĩa vụ) với sự đồng ý của người có quyền
yêu cầu. Các nghĩa vụ được chuyển giao phải là những nghĩa vụ chuyển giao được
trong giao lưu dân sự (Ðiều 321 khoản 1). Khi nghĩa vụ được chuyển giao, thì
người thế nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ (Ðiều 321 khoản 2), còn người
chuyển giao không có nghĩa vụ nữa.
Kỹ thuật chuyển giao nghĩa vụ được chấp nhận
trong khá nhiều hệ thống luật phương Tây, nhưng chưa bao giờ được chính thức
thừa nhận trong luật của Pháp.
Xác lập
giao dịch chuyển giao nghĩa vụ. Việc
chuyển giao nghĩa vụ phải được thể hiện bằng văn bản (Ðiều 322). Khác với
chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ không bao giờ có thể được xác
lập bằng lời nói. Trong trường hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao nghĩa
vụ phải có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có
thẩm quyền hoặc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì phải tuân theo
hình thức đó.
Cần nhắc lại rằng việc chuyển giao nghĩa vụ
chỉ có giá trị một khi có sự đồng ý của người có quyền yêu cầu. Song luật không
có quy định về hình thức thể hiện sự đồng ý đó. Có thể nghĩ rằng thông thường,
các bên chuyển giao nghĩa vụ sẽ yêu cầu người có quyền cùng tham gia xác lập
giao dịch hoặc ít nhất, ký tên vào văn bản ghi nhận việc chuyển giao nghĩa vụ
sau khi đã ghi chú một vài chữ thể hiện sự đồng ý của mình.
Hiệu
lực của việc chuyển giao nghĩa vụ. Mặc
dù luật không nói rõ, có thể tin rằng một khi chuyển giao nghĩa vụ cho người
khác, người có nghĩa vụ không còn bị ràng buộc vào quan hệ nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp người thế nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người
này phải tự mình chịu trách nhiệm trước người có quyền[10][10].
Mặt khác, theo BLDS Ðiều 323, nếu nghĩa vụ được chuyển giao là nghĩa vụ có bảo
đảm, thì biện pháp bảo đảm chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác: người
bảo lãnh của người chuyển giao nghĩa vụ không phải tiếp tục bảo lãnh cho người thế
nghĩa vụ; nếu người chuyển giao nghĩa vụ đã cầm cố, thế chấp tài sản của mình
để bảo đảm nghĩa vụ, thì, sau khi nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp cầm
cố, thế chấp chấm dứt hiệu lực;...
2 - Chuyển giao toàn bộ sản nghiệp
Thừa kế
đối với người có nghĩa vụ. Trong
trường hợp người có nghĩa vụ chết, thì nghĩa vụ của người này, trên nguyên tắc,
không chấm dứt mà được chuyển giao cho người thừa kế (BLDS Ðiều 639). Người
thừa kế của người chết có thể do chính người sau này chỉ định bằng di chúc hoặc
được gọi để nhận di sản (bao gồm các quyền và các nghĩa vụ về tài sản), theo
thứ tự do pháp luật quy định. Trừ trường hợp từ chối nhận di sản, người thừa kế
có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ do người chết để lại và người có quyền
yêu cầu không thể yêu cầu thay đổi người thừa kế này bằng người thừa kế khác.
Tuy nhiên,
- Có những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân
hoặc với những phẩm chất riêng của người chết và không thể được chuyển giao.
Những nghĩa vụ này chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết. Ví dụ: nghĩa vụ thực
hiện tác phẩm của một họa sĩ.
- Có những nghĩa vụ chấm dứt khi người có
nghĩa vụ chết, theo quy định của pháp luật, ví dụ: nghĩa vụ bảo lãnh trong luật
thực định.
- Trong trường hợp di sản được đặt dưới sự
quản lý chính thức, thì người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm đối với những nghĩa
vụ do người chết để lại trong phạm vi giá trị của tài sản có thuộc di sản (diễn
dịch khoản 2 Ðiều 640).
- Trong trường hợp di sản không được đặt dưới
sự quản lý chính thức và có nhiều người thừa kế, thì mỗi người thừa kế chịu
trách nhiệm đối với một phần nghĩa vụ do người chết để lại tương ứng với phần
quyền hưởng di sản của mình (khoản 3 Ðiều 640).
Sáp
nhập, chia, tách pháp nhân. Khi
nhiều pháp nhân được sáp nhập hoặc khi một pháp nhân được chia, tách, thì một
hoặc nhiều pháp nhân mới được thành lập
và pháp nhân được sáp nhập, chia, tách chấm dứt (Ðiều 108 khoản 1 điểm
a). Pháp nhân mới đảm nhận các nghĩa vụ do pháp nhân chấm dứt để lại (Ðiều 105
khoản 2; Ðiều 106 khoản 2). Tuy nhiên, cũng như cá nhân, pháp nhân có thể có
những nghĩa vụ không thể được chuyển giao hoặc đương nhiên chấm dứt sau khi
chấm dứt pháp nhân: những nghĩa vụ này sẽ chấm dứt chứ không thể được chuyển
giao cho pháp nhân mới, ví dụ: nghĩa vụ bảo lãnh trong luật thực định. Điều
chắc chắn: người có quyền yêu cầu mà bị vô hiệu hoá do việc sáp nhập, chia tách
pháp nhân phải có quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình chống lại việc chia,
tách, sáp nhập nhằm múc đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Ta có giải pháp này trong logique của suy nghĩ về quyền yêu cầu tuyên bố vô
hiệu một giao dịch gian lận[11][11]:
dù luật không có quy định rõ ràng, vẫn có thể dựa vào nguyên tắc áp dụng tương
tự để thừa nhận cho những người có quyền yêu cầu đối với pháp nhân sẽ biến mất
quyền yêu cầu tuyên bố việc sáp nhập, chia, tách pháp nhân không có hiệu lực
đối với mình, để họ có thể tiếp tục đeo đuổi việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
đối với mình bằng các tài sản của pháp nhân bị sáp nhập.
Chấm dứt nghĩa vụ
Giới
hạn vấn đề. Chấm
dứt nghĩa vụ tất nhiên xảy ra trong trường hợp nghĩa vụ được thực hiện đúng và
đầy đủ. Ðây là trường hợp tốt nhất. Trên thực tế, nghĩa vụ cũng có thể chấm
dứt, dù người có nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện xong: hợp đồng làm
phát sinh nghĩa vụ bị hủy bỏ, bị đơn phương đình chỉ thực hiện; người có quyền
miễn thực hiện nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ; nghĩa vụ có đối tượng là một vật
đặc định và vật bị mất trước khi nghĩa vụ được thực hiện; nghĩa vụ được thay
thế bằng một nghĩa vụ khác; nghĩa vụ mất tính chất pháp lý, đặc biệt là không
thể bị cưỡng chế thực hiện được nữa, do hết thời hiệu;
I. Hủy
bỏ hợp đồng
Khái
niệm. Hủy bỏ hợp đồng là biện pháp chấm dứt hợp
đồng bằng cách đưa các bên giao kết trở lại tình trạng như trước khi giao kết.
Việc hủy bỏ hợp đồng xảy ra trong điều kiện có một bên không thực hiện nghĩa vụ
và có tác dụng tạo một lối ra dễ chấp nhận nhất cho người giao kết với người vi
phạm nghĩa vụ. Tất nhiên, người giao kết với người vi phạm nghĩa vụ có thể yêu
cầu buộc người sau này thực hiện nghĩa vụ; nhưng thông thường, việc yêu cầu một
người không tự giác thực hiện nghĩa vụ phải thông qua nhiều thủ tục rất mất
thời gian và tốn kém; hủy bỏ hợp đồng là con đường ngắn nhất để chấm dứt quan
hệ giao kết.
Hủy bỏ
theo ý chí. Khác
với luật của nhiều nước, luật Việt Nam thừa nhận rằng bên giao kết có quyền hủy
bỏ hợp đồng, nghĩa là có thể tự mình chấm dứt hợp đồng bằng cách hủy bỏ hợp
đồng mà không cần đến vai trò của Toà án[12][12].
Thông thường, khi một bên sử dụng quyền hủy bỏ hợp đồng của mình, thì bên kia
sẽ kiện. Khi đó, công việc của thẩm phán là xem xét yêu cầu của người đi kiện:
nếu yêu cầu có cơ sở, thì thẩm phán tuyên bố việc hủy bỏ hợp đồng không có giá
trị và hợp đồng được thực hiện đến cùng; nếu yêu cầu không có cơ sở, thì thẩm
phán bác đơn và việc hủy bỏ hợp đồng của người bị kiện tiếp tục phát sinh hiệu
lực. tòa án Việt Nam không được luật giao quyền hủy bỏ hợp đồng theo yêu cầu
của một bên (hoặc cả hai bên) giao kết.
Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo cho bên kia
biết về việc hủy bỏ (Ðiều 419 khoản 2); nếu không thông báo mà gây thiệt hại
cho bên kia, thì bên hủy bỏ hợp đồng phải bồi thường (cùng điều luật). Luật
không có quy định về hình thức thông báo; vậy việc thông báo có thể được thực
hiện dưới bất kỳ hình thức nào và được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào
được pháp luật thừa nhận. Luật cũng không chính thức đòi hỏi việc tiếp nhận thông
báo của bên kia như là một điều kiện để việc hủy bỏ có giá trị; tuy nhiên, một
cách hợp lý, chừng nào chưa nhận được thông báo hủy bỏ của bên kết ước, thì đối
với bên giao kết, hợp đồng vẫn tiếp tục tồn tại.
1. Hủy
bỏ hợp đồng do lỗi
Phạm vi
áp dụng. Theo
Ðiều 413 BLDS, khi một bên không thực hiện nghĩa vụ của miình do lỗi của bên
kia, thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc
hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ta nhận thấy:
- Ðiều luật chỉ được áp dụng cho hợp đồng song
vụ, tức là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
- Ðiều luật được áp dụng cho trường hợp bên
hủy bỏ hợp đồng chưa thực hiện nghĩa vụ của mình. Nhưng, bằng phương pháp suy
lý mạnh, có thể tin rằng điều luật cũng
được áp dụng cả trong trường hợp bên hủy bỏ đã thực hiện nghĩa vụ của mình.
Biện pháp huỷ bỏ hợp đồng không phải là biện
pháp duy nhất mà người bị thiệt hại có quyền sử dụng: người này có thể yêu cầu
buộc người có lỗi phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, nếu biện pháp cưỡng
chế thực hiện nghĩa vụ là khả thi.
2. Hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện nghĩa vụ
Phạm vi
áp dụng. Theo
BLDS Điều 419 khoản 1, một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi
thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Vậy, trong luật thực định Việt Nam, việc
một bên hủy bỏ hợp đồng do bên kia không thực hiện nghĩa vụ, nếu không được các
bên thoả thuận trước, chỉ được cho phép trong những trường hợp được luật dự
kiến.
Dẫu sao, việc không thực hiện nghĩa vụ theo
hợp đồng tự nó đã chứa đựng yếu tố lỗi, như ta đã biết[13][13].
Giả sử trong một hợp đồng song vụ, một bên đã thực hiện nghĩa vụ còn bên kia
không thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có thể viện dẫn
Điều 413 để huỷ bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, việc huỷ bỏ hợp đồng theo Điều 413 sẽ
không thể được chấp nhận trong trường hợp người không thực hiện nghĩa vụ không
có lỗi. Ta thấy ngay lợi ích của Điều 419 khoản 1: một khi việc huỷ bỏ hợp đồng
được pháp luật dự kiến, thì một khi điều kiện áp dụng điều luật đã có đủ (nghĩa
là có vi phạm hợp đồng), thì quyền huỷ bỏ hợp đồng của bên bị vi phạm có cơ sở
để thực hiện mà không cần xét đến việc liệu người vi phạm có hay không có lỗi.
Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, nếu người bán giao vật không đồng bộ làm cho mục
đích sử dụng của vật không đạt được, thì người mua có quyền hủy bỏ hợp đồng
(ngay nếu như người bán không có lỗi) (Ðiều 429 khoản 1); thế nhưng, nếu người
mua không trả đủ tiền mua tài sản, thì người bán lại chỉ có quyền hủy bỏ hợp
đồng, một khi người mua có lỗi.
Luật có thể dự kiến việc huỷ bỏ hợp đồng cả
trong trường hợp hợp đồng mang tính chất đơn vụ. Ví dụ, theo BLDS Điều 472, nếu
người vay tài sản sử dụng tài sản vay không đúng mục đích, dù đã được nhắc nhở,
thì người cho vay có quyền đòi lại tài sản trước khi hết hạn vay[14][14].
Cần nhấn mạnh rằng trong một hợp đồng đơn vụ, quyền huỷ bỏ hợp đồng , nếu có
được dự kiến, chỉ có thể là quyền dành riêng cho người có quyền yêu cầu chứ
không thể là quyền của người có nghĩa vụ.
Và cũng như huỷ bỏ hợp đồng do lỗi, huỷ bỏ hợp
đồng do không thực hiện nghĩa vụ là biện pháp mà người bị thiệt hại có thể sử
dụng một cách tuỳ nghi: thay vì huỷ bỏ hợp đồng, người này có thể yêu cầu buộc
bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ, nhưng tất nhiên, trong điều kiện việc cưỡng chế
thực hiện nghĩa vụ là có thể được.
3 - Ðiều khoản hủy bỏ hợp đồng
Ðiều
kiện để điều khoản hủy bỏ hợp đồng có giá trị. Nhắc lại rằng theo BLDS Ðiều 419 khoản 1,
một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia
vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định. Ta nhận thấy ngay rằng luật chỉ cho phép ghi nhận điều khoản hủy bỏ
hợp đồng để áp dụng cho trường hợp vi phạm hợp đồng: không thể thỏa thuận trước
việc hủy bỏ hợp đồng một cách tùy ý, nhất là không thể thỏa thuận trước việc
hủy bỏ hợp đồng trong điều kiện hợp đồng đang được thực hiện nghiêm chỉnh.
Tuy nhiên, một khi điều khoản hủy bỏ có giá
trị, thì nó có thể được áp dụng cả trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng không
có lỗi: khi dự liệu khả năng xây dựng điều khoản hủy bỏ, luật chỉ quan tâm đến
mặt khách quan của điều kiện hủy bỏ - có vi phạm hợp đồng; còn vi phạm xảy ra
trong hoàn cảnh nào và thái độ tâm lý của người vi phạm ra sao, không phải là
đề tài cần bàn cãi.
Mặt khác, điều khoản hủy bỏ hợp đồng có thể
được đưa cả vào trong các hợp đồng đơn vụ chứ không chỉ trong các hợp đồng song
vụ.
4 - Hủy bỏ hợp đồng do rủi ro
Khái
niệm. Theo
BLDS Ðiều 308 khoản 2, trong trường hợp người có nghĩa vụ không thể thực hiện
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng, thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ðiều luật chỉ
giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong trường hợp đặc thù. Tuy nhiên, có
thể hình dung rằng nếu quả thực nghĩa vụ liên quan không còn có thể được thực
hiện (chứ không chỉ đơn giản là không thể được thực hiện đúng thời hạn), thì
nghĩa vụ cũng chấm dứt. Tự đặt mình trong trường hợp nghĩa vụ liên quan phát
sinh từ một hợp đồng song vụ, ta có ngay câu hỏi: thế thì khi đó, người giao
kết có phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong điều kiện bên kia không thể thực
hiện nghĩa vụ của họ do nguyên nhân bất khả kháng ?
Cho đến nay, luật viết chưa có giải pháp mang
tính nguyên tắc cho câu hỏi trên đây. Nói riêng về nghĩa vụ có đối tượng là vật
đặc định, luật quyết định rằng nghĩa vụ giao vật chấm dứt nếu vật không còn
(Ðiều 392), nhưng luật lại không đề cập đến nghĩa vụ có thể có của người có
quyền nhận vật (ví dụ, nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng mua bán). Tương đối rõ
hơn một chút, hợp đồng thuê tài sản chấm dứt khi tài sản thuê không còn (Ðiều
488 khoản 5). Chấm dứt, có nghĩa rằng người thuê không phải trả tiền thuê, và
người cho thuê không còn có các nghĩa vụ của người cho thuê. Ðiều luật được áp
dụng mà không phân biệt giữa tài sản thuê không còn do lỗi và tài sản thuê
không còn do sự kiện bất khả kháng.
Có thể từ các quy định tản mạn trong luật, rút
ra được quy tắc sau đây: trong trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song
vụ không thể được thực hiện do sự kiện bất khả kháng, thì người có nghĩa vụ
không phải chịu trách nhiệm dân sự, nhưng cũng không có quyền yêu cầu bên giao
kết thực hiện nghĩa vụ của người sau này đối với mình.
Phân
tích kỹ thuật. Khi
áp dụng giải pháp nguyên tắc vừa được thiết lập, cần phân biệt giữa mất toàn bộ
khả năng thực hiện nghĩa vụ và mất một phần khả năng thực hiện nghĩa vụ.
1 - Nếu nghĩa vụ hoàn toàn không thể thực hiện
được, thì nghĩa vụ của người có quyền cũng không được thực hiện. Hợp đồng coi
như không có hiệu lực, nghĩa là bị hủy bỏ. Ðây là trường hợp hủy bỏ hợp đồng
khá đặc biệt, bởi vì không có ai có lỗi cũng không có ai vi phạm nghĩa vụ.
2 - Nếu nghĩa vụ chỉ không thể được thực hiện
một phần, thì hẳn nghĩa vụ của người có quyền cũng được cắt giảm tương ứng:
người cho thuê không thể bảo đảm việc căn phòng cho thuê được điều hòa không
khí thường xuyên, do sự cố mất điện thường xảy ra trong khu vực; người thuê
được giảm một phần tiền thuê tương ứng với phần nghĩa vụ bảo đảm việc điều hòa
không khí không được thực hiện do nguyên nhân bất khả kháng; nhưng người thuê
không được miễn trả tiền thuê.
Trường
hợp hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản phải đăng ký. Theo BLDS Ðiều 433 khoản 2, đối với hợp đồng
mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu, thì
bên bán chịu rủi ro đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký; bên mua chịu rủi ro kể
từ khi hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu
không có thỏa thuận khác. Vậy, giả sử giữa thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký
và thời điểm giao tài sản cho bên mua mà tài sản không còn do nguyên nhân bất
khả kháng, thì rủi ro thuộc về bên mua, người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ giao vật, chứ không phải bên bán: bên bán không phải thực hiện nghĩa vụ giao
vật, trong khi bên mua vẫn phải trả tiền mua, dù không bao giờ nhận được tài
sản.
Tuy nhiên, một cách hợp lý, nếu nghĩa vụ giao
tài sản đã đến hạn thực hiện và người mua đã yêu cầu người bán thực hiện nghĩa
vụ, thì rủi ro phải thuộc về người bán: khi đó, nếu tài sản bị mất (do nguyên
nhân bất khả kháng), thì người bán không phải thực hiện nghĩa vụ giao vật,
nhưng người mua cũng không phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
5 - Hệ quả của việc hủy bỏ hợp đồng
Giống
như hợp đồng vô hiệu ? Theo
BLDS Ðiều 419 khoản 3, khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ
thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền. Thoạt trông, không thể
thấy có gì khác biệt, về hậu quả, giữa một hợp đồng vô hiệu và một hợp đồng bị
hủy bỏ: bên giao kết hợp đồng vô hiệu, cũng như bên giao kết hợp đồng bị hủy
bỏ, đều không có quyền và nghĩa vụ đối với bên kia; và nếu các bên đã chuyển
giao tài sản cho nhau trong khuôn khổ thực hiện các nghĩa vụ vô hiệu hoặc bị
hủy bỏ, thì phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản. Tuy nhiên, khác với hợp
đồng vô hiệu, hợp đồng bị hủy bỏ vẫn tồn tại và vẫn có giá trị, chỉ có các
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là không được thực hiện.
Bồi
thường thiệt hại. Bên
hủy bỏ hợp đồng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khác với quyền hủy bỏ
hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chỉ có thể được thực hiện với sự
can thiệp của tòa án. Nói rõ hơn, mức bồi thường thiệt hại (và có thể cả thể
thức thực hiện việc bồi thường) do tòa án ấn định.
II -
Ðơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng
Khái
niệm. Có
thể quan niệm việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng như một hình thức
giới hạn hệ quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong thời gian: hợp đồng bị đơn
phương đình chỉ thực hiện sẽ không có hiệu lực về sau, nhưng tất cả những kết
quả đạt được trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến ngày hợp đồng bị đình
chỉ thực hiện vẫn được ghi nhận. Nói cách khác, hợp đồng bị đơn phương đình chỉ
thực hiện là hợp đồng có giá trị và có hiệu lực cho đến thời điểm nó bị đình
chỉ thực hiện (Ðiều 420 khoản 3): các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ; bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán, nghĩa là có
quyền yêu cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng.
Hợp
đồng thực hiện liên tục trong thời gian. Có những hợp đồng được thực hiện liên tục
trong thời gian, như hợp đồng cho thuê tài sản, và việc thực hiện tỏ ra nghiêm
chỉnh trong một thời kỳ dài. Sẽ hợp lý, nếu việc hủy bỏ hợp đồng loại này không
ảnh hưởng đến các kết quả thực hiện hợp đồng đạt được trước đó. Chế định đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng chính là công cụ mà bên giao kết có thể sử
dụng cho mục đích đó.
Ðơn
phương đình chỉ theo ý chí. Cũng
như việc hủy bỏ hợp đồng, việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc
của bên giao kết hợp đồng chứ không phải của tòa án. Quyền đơn phương đình chỉ
có cơ sở trong các điều khoản đình chỉ được ghi nhận trong hợp đồng và thỏa mãn
các điều kiện do luật quy định để có giá trị (tức là có vi phạm hợp đồng: Ðiều
420 khoản 1) hoặc trong các quy định của luật viết (ví dụ, trong hợp đồng cho
thuê nhà ở: Ðiều 497; trong hợp đồng thuê khoán: Ðiều 513;...).
Bên đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng
phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc đình chỉ hợp đồng (Ðiều 420 khoản
2); nếu không thông báo mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường (cùng điều luật).
Cũng như đối với việc hủy bỏ hợp đồng, Luật không có quy định về hình thức
thông báo về việc đơn phương đình chỉ hợp đồng, nghĩa là việc thông báo có thể
được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
Khi hợp đồng bị đơn phương đình chỉ thực hiện,
thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo đình chỉ (Ðiều
420 khoản 3). Trong trường hợp có tranh chấp, thì tòa án chỉ lựa chọn một trong
hai giải pháp: hoặc tuyên bố việc đình chỉ là có cơ sở; hoặc tuyên bố việc đình
chỉ không có cơ sở và hợp đồng tiếp tục được thực hiện. tòa án không ấn định
ngày đình chỉ hiệu lực của hợp đồng.
Ðơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng trong trường hợp không có vi phạm hợp đồng. Trên nguyên tắc, việc đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng là biện pháp chế tài đối với bên vi phạm hợp đồng. Không có
vi phạm, thì không có cơ sở để áp dụng biện pháp này. Một cách ngoại lệ, luật thừa
nhận quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng mà không có vi phạm hợp đồng để các bên
có thể chấm dứt các quan hệ kết ước không còn phù hợp với lợi ích của mình. Các
hợp đồng không có thời hạn là những ví dụ điển hình về hợp đồng có thể bị đình
chỉ theo quyết định đơn phương: người lao động theo một hợp đồng lao động không
thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho
người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày (Bộ luật lao động Ðiều 37
khoản 2); người cho thuê nhà ở theo một hợp đồng cho thuê không thời hạn có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê, nhưng phải báo cho người thuế biết
trước ít nhất 6 tháng (BLDS Ðiều 498 khoản 1).
III. Hết thời hạn thực hiện hợp đồng
Hợp
đồng có thời hạn. Ví dụ
điển hình là hợp đồng cho thuê tài sản: thông thường các bên thỏa thuận về việc
duy trì hợp đồng trong một thời hạn; hết thời hạn đó, thì trên nguyên tắc,
người cho thuê không còn nghĩa vụ cho thuê và người thuê không còn nghĩa vụ trả
tiền thuê. Có trường hợp để bảo vệ quyền lợi của một bên, của cả hai bên giao
kết hoặc bảo vệ trật tự công cộng, pháp luật chủ động ấn định thời hạn tối đa
cho một loại hợp đồng đặc thù mà các bên phải tuân theo (ví dụ, hợp đồng cho
thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:
BLDS Ðiều 715 khoản 2) hoặc kéo dài thời hạn mà các bên ấn định (như trong
trường hợp kéo dài thời gian lưu cư của người thuê nhà ở sau khi hết hạn hợp
đồng thuê: BLDS Ðiều 499). Trong trường hợp thứ hai, quyền và nghĩa vụ của các
bên được tiếp tục duy trì trong thời gian kéo dài thời hạn; nhưng sau khi
khoảng thời gian kéo dài trôi qua, các quyền và nghĩa vụ ấy cũng chấm dứt.
Một khi thời hạn (kể cả khoảng thời gian kéo
dài) kết thúc, thì quyền và nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng chấm dứt, dù có
thể chưa được thực hiện: một người giao kết hợp đồng ủy quyền bán nhà có thời
hạn một năm với tư cách người được ủy quyền; hết thời hạn đó, người này không
còn là người được ủy quyền, dù công việc được ủy quyền chưa được thực hiện (nhà
chưa bán được).
Hiệu
lực và chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Trong thời gian hợp đồng có hiệu lực, các
bên ràng buộc lẫn nhau vào quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và không bên
nào được quyền cắt đứt quan hệ đó mà không phạm lỗi: người sử dụng lao động
không được quyền cho người lao động thôi việc và người lao động không được bỏ
việc; người thuê nhà không được quyền đình chỉ việc thuê và người cho thuê
không được quyền đình chỉ việc cho thuê;... Vả lại, việc giới hạn hiệu lực của
hợp đồng trong thời gian không hề có tác dụng làm chấm dứt một nghĩa vụ không
được thực hiện trong thời hạn có hiệu lực đó. Một người thuê nhà trong hai năm
sẽ không còn quyền thuê khi bước vào năm thứ ba, trừ trường hợp được lưu cư
hoặc được ký tiếp hợp đồng thuê; nhưng nếu chưa trả tiền thuê nhà, thì người
này vẫn tiếp tục có trách nhiệm trả sau khi hợp đồng thuê đã hết hiệu lực.
Các bên có thể thỏa thuận việc chấm dứt hợp
đồng trước thời hạn. Mặt khác, đối với những hợp đồng làm phát sinh các nghĩa
vụ gắn liền với bên giao kết và không thể được chuyển giao cho người khác, thì
hợp đồng chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết dù thời hạn của hợp đồng có thể
chưa hết (ví dụ, hợp đồng ủy quyền). Hợp đồng có thời hạn cũng chấm dứt trong
trường hợp bên giao kết lâm vào tình trạng phá sản và tài sản của người này
phải được thanh toán. Cuối cùng, nếu nghĩa vụ không thể được thực hiện do sự
kiện bất khả kháng, thì hợp đồng cũng chấm dứt trước thời hạn.
Giao
kết tiếp hợp đồng mới. Nhắc
lại rằng khi hết thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, thì quan hệ nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng chấm dứt. Tuy nhiên, các bên có thể tiếp tục duy trì quan hệ
đó bằng cách lập lại hợp đồng trong những trường hợp hợp đồng có thể được lập
lại. Về phần mình, luật thừa nhận quyền giao kết tiếp hợp đồng cho một số chủ
thể của quan hệ hợp đồng đặc thù, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ thể đó. Ví dụ:
người thuê nhà ở được ưu tiên ký hợp đồng thuê tiếp, nếu đã hết hạn thuê mà nhà
vẫn dùng để cho thuê (Ðiều 494 khoản 5).
Trong trường hợp một hợp đồng mới được giao
kết, thì hợp đồng cũ vẫn chấm dứt;
IV. Chấm dứt không hoàn hảo: hoãn thực hiện
nghĩa vụ
Tổng
quan. Theo
BLDS Điều 412, bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa
vụ, nếu tài sản của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực
hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện
được nghĩa vụ hay có người bảo lãnh.
Trong giả thiết của điều luật, ta có một hợp
đồng song vụ, nghĩa là hợp đồng làm cho mỗi bên vừa là người có quyền yêu cầu,
vừa là người có nghĩa vụ. Suy cho cùng, điều thúc giục người có nghĩa vụ theo
một hợp đồng song vụ thực hiện nghĩa vụ của mình chính là sự đáp ứng (tức là
việc thực hiện nghĩa vụ) của người có quyền yêu cầu của mình. Người mua trong
hợp đồng đồng mua bán chấp nhận trả tiền chỉ vì người bán chấp nhận bán tài
sản. Bởi vậy, nếu người có quyền yêu cầu (đồng thời là người có nghĩa vụ) tỏ ra
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người có nghĩa vụ (đồng thời
là người có quyền yêu cầu) cũng không còn động cơ để thực hiện nghĩa vụ.
Điều
kiện. Trước
hết, hợp đồng liên quan phải là hợp đồng song vụ: việc hoãn thực hiện nghĩa vụ
không thể được chấp nhận trong các hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Thế
nhưng, điều kiện đáng chú ý nhất do người làm luật đặt ra đối với người có
quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ là người này phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ trước. Vậy nghĩa là việc hoãn thực hiện nghĩa vụ không thể được chấp nhận
trong trường hợp các bên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc. Điều
kiện này khiến cho luật Việt Nam khác hẳn luật của nhiều nước[15][15].
Việc cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước hoãn thực hiện nghĩa vụ của
mình trong trường hợp người thực hiện nghĩa vụ sau tỏ ra không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ có thể khiến cho một số thói quen đã được chấp nhận trong các
giao dịch thông thường của dân cư bị xáo trộn. Cứ hình dung: các nhà hàng,
khách sạn thường cung ứng dịch vụ của mình trước và khách ăn, khách trọ trả
tiền sau. Với quy tắc của Điều 412 BLDS, các nhà hàng, khách sạn, sau khi đã
giao kết hợp đồng dịch vụ, sẽ có quyền từ chối cung ứng dịch vụ (không mang món
ăn ra, không cho khách nhận phòng), thậm chí từ chối cung ứng dịch vụ một cách
trọn vẹn (không mang món ăn kế tiếp ra hoặc không cho khách tiếp tục trọ lại
trong phòng), một khi nhận thấy khách ăn, khách trọ tỏ ra không có khả năng
thanh toán, dù nghĩa vụ trả tiền của khách chưa đến hạn thực hiện.
Hiệu
lực. Hoãn
thực hiện nghĩa vụ chỉ đơn giản là một biện pháp tự bảo vệ của người có nghĩa
vụ chống lại nguy cơ thiệt hại rõ ràng đối với tài sản của mình trong trường
hợp thực hiện nghĩa vụ. Việc hoãn thực hiện nghĩa vụ không có tác dụng (và cũng
không nhằm mục đích) chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên, mà chỉ khiến cho
hợp đồng tạm thời bị “treo” lại. Việc treo hợp đồng sẽ bị dở bỏ một khi người
có nghĩa vụ sau chứng minh được khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc có
người bảo lãnh: khi đó, người có nghĩa vụ trước sẽ phải thực hiện nghĩa vụ của
mình. Ta có ngay hai vấn đề:
- Nếu người có nghĩa vụ sau đã cố gắng chứng
minh khả năng thanh toán của mình hoặc đã giới thiệu người bảo lãnh, nhưng
người có nghĩa vụ trước vẫn không thoả mãn, thì sao ?
- Nếu người có nghĩa vụ sau kiên quyết không
chấp nhận yêu sách của người có nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ trước phải xử
sự như thế nào ?
Có thể nhận thấy ngay rằng số phận của hợp
đồng các trong trường hợp này hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí của người phải thực
hiện nghĩa vụ trước.
Suy cho cùng, khó có thể thừa nhận rằng việc
cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước trong một hợp đồng song vụ hoãn
thực hiện nghĩa vụ, chỉ vì người này nhận thấy một cách chủ quan rằng người
thực hiện nghĩa vụ sau không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, là một quy tắc góp
phần xây dựng môi trường giao dịch lành mạnh. Đáng lý ra, nếu cho rằng người
đối tác không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì đương sự có thể từ chối giao
kết hợp đồng. Việc cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước hoãn thực hiện
nghĩa vụ cho đến khi người thực hiện nghĩa vụ sau giới thiệu được người bảo
lãnh còn đồng nghĩa với việc thừa nhận cho một bên trong hợp đồng quyền đơn
phương sửa đổi các điều kiện của một hợp đồng đã được giao kết một cách hữu
hiệu; điều đó không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản chi phối quan hệ hợp đồng
trong luật thực định.
I. Bù trừ nghĩa vụ
Khái
niệm. Bù
trừ nghĩa vụ là một thủ tục trí tuệ có tác dụng chấm dứt các nghĩa vụ hỗ tương
của hai người bằng cách thực hiện nghĩa vụ trong suy nghĩ: thay vì mỗi người
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người còn lại một cách máy móc, hai bên lập
một bài toán trừ và chỉ thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng với hiệu số của bài
toán trừ đó. Ví dụ: A nợ B 100 đồng; B nợ A 50 đồng; vậy, chỉ cần B trả cho A
50 đồng, thì hai bên không còn nghĩa vụ gì đối với nhau.
Hai
chức năng của bù trừ nghĩa vụ. Bù
trừ nghĩa vụ có thể được hình dung như một thể thức thanh toán đặc biệt và được
đơn giản hóa: người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ mà không cần chuyển dịch tài
sản của mình; người có quyền tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ mà không cần
nhận tài sản. Việc thanh toán bằng bù trừ nghĩa vụ được thực hiện một cách tự
động mà không cần có các hành vi xuất phát từ ý chí của các bên liên quan; bởi
vậy, khác với việc tự nguyện thực hiện nghĩa vụ, việc bù trừ nghĩa vụ được áp
dụng cả trong trường hợp người có nghĩa vụ không có năng lực hành vi và không
có người đại diện.
Bù trừ nghĩa vụ cũng có thể được hình dung như
một biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp người có nghĩa
vụ mất khả năng thanh toán, người có quyền có được một công cụ để bảo vệ quyền
lợi của mình trong điều kiện có những người khác cũng có quyền yêu cầu đối với
người có nghĩa vụ đó. Ví dụ: A nợ B 100 đồng và không có khả năng thanh toán; B
nợ A 150 đồng; vậy, B chỉ cần trả cho A 50 đồng để thu hồi đủ số nợ 100 của A,
trong khi các chủ nợ khác của A có thể không được thanh toán đủ.
1. Bù
trừ theo pháp luật
Ðiều
kiện áp dụng việc bù trừ nghĩa vụ. Theo
BLDS Ðiều 386 khoản 1, trong trường hợp hai người cùng có nghĩa vụ tài sản cùng
loại đối với nhau, thì khi cùng đến hạn, họ không phải thực hiện nghĩa vụ đối
với nhau và nghĩa vụ được xem là chấm dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Tuy nhiên, theo Ðiều 387, nghĩa vụ dân sự không được bù trừ trong các
trường hợp sau đây: 1 - Nghĩa vụ đang có tranh chấp; 2 - Nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; 3 - Nghĩa vụ cấp dưỡng;
4 - Các nghĩa vụ khác do pháp luật quy định. Từ các điều luật đó, ta nhận thấy
rằng để áp dụng được biện pháp bù trừ nghĩa vụ, cần có đủ các điều kiện sau
đây:
1 - Có tình trạng hỗ tương về nghĩa vụ - Hai
bên liên quan phải đồng thời là người có quyền và có nghĩa vụ đối với nhau.
2 - Các nghĩa vụ phải cùng loại đối với nhau -
Không thể bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp A nợ B một số tiền, còn B nợ A một
chiếc xe máy. Ðối tượng của nghĩa vụ được bù trừ phải là vật có thể thay thế
cho nhau, vật cùng loại. Thông thường các nghĩa vụ được bù trừ là nghĩa vụ trả
tiền.
Tuy nhiên, theo BLDS Điều 386 khoản 2, những
vật được định giá thành tiền cũng có thể bù trừ với nghĩa vụ trả tiền. Với quy
định đó, thì có vẻ như các nghĩa vụ chuyển giao một vật có thể bù trừ với nghĩa
vụ trả tiền, một khi vật được định giá thành tiền. Thực ra, bất kỳ vật nào
chuyển giao được trong giao lưu dân sự cũng có thể được định giá bằng một số
tiền. Thế nhưng, trong điều kiện chính vật được chuyển giao, chứ không phải một
số tiền, là cái mà người có quyền yêu cầu quan tâm, không thể coi là cùng loại
nghĩa vụ chuyển giao vật với nghĩa vụ trả tiền. Hẳn trong giả thiết của điều
luật, “vật được định giá thành tiền” là vật được các bên gán cho chức năng
thanh toán giống như tiền (ví dụ, vàng). Chỉ với ý nghĩa đó, vật mới có thể trở
nên cùng loại với tiền và các nghĩa vụ liên quan mới có thể bù trừ cho nhau
được.
3 - Các nghĩa vụ phải xác định - Nghĩa là
trước hết phải tồn tại và sau đó, phải được xác định về số lượng. Nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại chỉ có thể được coi là xác định một khi mức bồi thường được ấn
định trong một bản án có hiệu lực pháp luật. Nghĩa vụ đang bị tranh chấp không
phải là nghĩa vụ xác định.
4 - Các nghĩa vụ phải cùng đến hạn - Nếu có
một nghĩa vụ chưa đến hạn thực hiện, thì không có bù trừ nghĩa vụ. Tuy nhiên,
nghĩa vụ được hoãn thực hiện sau khi đến hạn vẫn bù trừ được.
5 - Các nghĩa vụ phải có thể được bù trừ -
Nghĩa là nghĩa vụ không thuộc loại bị cấm bù trừ theo quy định của pháp luật.
Hiệu
lực của việc bù trừ. Một
khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định, thì việc bù trừ là đương nhiên:
“nghĩa vụ được xem là chấm dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
(BLDS Điều 386 khoản 1). Vấn đề đặt ra là trong trường hợp một người có nghĩa
vụ bù trừ được mà không biết, bị người
có quyền kiện yêu cầu buộc thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án có thể chủ động tuyên
bố việc bù trừ nghĩa vụ để đơn giản hoá vụ việc ? Trong khung cảnh của luật
thực định Việt Nam, có vẻ như câu trả lời khẳng định phải được lựa chọn[16][16]:
Toà án, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam có quyền và có nghĩa vụ tự
mình tiến hành điều tra; nếu biết được rằng nghĩa vụ có thể được bù trừ, Toà án
có quyền chủ động tuyên bố bù trừ nghĩa vụ. Tuy nhiên, cũng có vẻ như Toà án
không chịu trách nhiệm, trong trường hợp nghĩa vụ có thể được bù trừ, nhưng
người bị buộc thực hiện nghĩa vụ không biết và cả Toà án, dù đã điều tra, cũng
không biết.
Theo BLDS Điều 386 khoản 2, trong trường hợp
giá trị của tài sản hoặc công việc không tương đương nhau, thì các bên thanh
toán cho nhau phần giá trị chênh lệch. Nói cách khác, nếu nghĩa vụ chỉ được bù
trừ một phần, thì phần nghĩa vụ không được bù trừ phải được thực hiện một cách
bình thường. Ví dụ, A nợ B 100 đồng; B nợ A 80 đồng; hai nghĩa vụ cùng đến hạn
và, sau khi bù trừ, A còn nợ B 20 đồng. Vậy A phải trả cho B số nợ đó.
Việc bù trừ nghĩa vụ có tác dụng chấm dứt
nghĩa vụ và, do đó, chấm dứt luôn cả các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, trong trường hợp nghĩa vụ chỉ được bù trừ một phần và phần nghĩa vụ
không được bù trừ được bảo đảm thực hiện, thì biện pháp bảo đảm vẫn được duy
trì toàn bộ cho đến khi phần nghĩa vụ không được bù trừ được thực hiện xong. Ta
có được giải pháp này nhờ tính chất không thể phân chia của các quyền thụ hưởng
các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ.
2. Bù
trừ theo thoả thuận
Nguyên
tắc tự do ý chí. Các
điều kiện của việc bù trừ theo pháp luật không mang tính mệnh lệnh, bắt buộc.
Các bên có thể thoả thuận về việc bù trừ nghĩa vụ theo những điều kiện đơn giản
hơn. Các bên có thể loại bỏ điều kiện về quan hệ nghĩa vụ hỗ tương và thoả
thuận về việc bù trừ nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba: người cha chấp nhận
không đòi nợ người mắc nợ đối với mình, với điều kiện người sau này không đòi
nợ con mình. Các bên có thể thoả thuận về việc loại bỏ điều kiện về tính cùng
loại của các nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao một vật cùng loại bù trừ với một
nghĩa vụ trả tiền. Các bên thậm chí có thể thoả thuận về việc loại bỏ điều kiện
về sự đến hạn cùng một lúc: một nghĩa vụ chưa đến hạn được bù trừ với một nghĩa
vụ đã đến hạn. Tuy nhiên, các bên hẳn vẫn phải tuân thủ các quy định về cấm bù
trừ nghĩa vụ trong một số tru7òng hợp do pháp luật quy định.
Sự thoả thuận về việc bù trừ nghĩa vụ thực sự
là một hợp đồng, do đó, phải tuân thủ các điều kiện của luật chung về giao kết
hợp đồng, để có giá trị; người thoả thuận phải có năng lực hành vi, người không
có năng lực hành vi phải được đại diện. Hơn nữa, việc thoả thuận bù trừ nghĩa
vụ có tác dụng loại bỏ một hoặc nhiều điều kiện của việc bù trừ theo pháp luật.
Trong chừng mực đó, bù trừ nghĩa vụ theo thoả thuận nên được xem như một giao
dịch quan trọng, thậm chí quan trọng ngang với một giao dịch có tính chất định
đoạt tài sản. Nếu chấp nhận cách đánh giá đó, thì trong khung cảnh của luật
Việt nam, người giám hộ không thể nhân danh người được giám hộ để thoả thuận về
việc bù trừ những nghĩa vụ có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của UBND địa phương
nơi cư trú; người chưa thành niên đủ 15 tuổi không thể thoả thuận về việc bù
trừ những nghĩa vụ có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của người đại
diện;…
3.
Trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Cấm bù
trừ nghĩa vụ. Theo
điểm c khoản 2 Ðiều 18 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993, kể từ ngày
nhận được quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì
doanh nghiệp không có quyền thanh toán bất kỳ khoản nợ không có bảo đảm nào cho
bất kỳ chủ nợ nào. Với quy định đó và trong điều kiện bù trừ nghĩa vụ được quan
niệm như một hình thức thanh toán nghĩa vụ, thì việc bù trừ nghĩa vụ không thể
được thực hiện, một khi một trong hai bên lâm vào tình trạng phá sản. Việc cấm
bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp này được áp dụng cả đối với bù trừ theo luật
và bù trừ theo thoả thuận. Có vẻ như người có nghĩa vụ đối với một doanh nghiệp
bị phá sản sẽ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của mình, nhưng không chắc được
doanh nghiệp thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với mình.
II. Hòa nhập giữa người có nghĩa vụ và người
có quyền
Khái
niệm. Một
trong những điều kiện chủ yếu để nghĩa vụ tồn tại là sự tồn tại của quan hệ đối
lập của hai nhân vật: người có nghĩa vụ và người có quyền yêu cầu. Một khi quan
hệ đối lập biến mất do tư cách người có nghĩa vụ và tư cách người có quyền chỉ
còn được một người đảm nhận, thì nghĩa vụ không còn điều kiện để tồn tại: một
người không có lợi ích để yêu cầu chính mình thực hiện nghĩa vụ cho mình. Luật
nói rằng khi người đang có nghĩa vụ lại trở thành người có quyền đối với chính
nghĩa vụ đó, thì nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt (Ðiều 388).
Thực ra, nói rằng nghĩa vụ chấm dứt sau khi có
sự hòa nhập giữa người có nghĩa vụ và người có quyền chỉ để đơn giản hóa việc
mô tả một hoàn cảnh khá phức tạp. Sự chấm dứt của nghĩa vụ lệ thuộc vào sự hòa
nhập giữa người có nghĩa vụ và người có quyền. Vậy mà, bản thân sự hòa nhập lại
có thể không dứt khoát: một công ty phát hành trái phiếu mua lại các trái phiếu
của chính mình khiến cho nghĩa vụ thanh toán trái phiếu biến mất; nhưng nếu
công ty lại bán trái phiếu đã mua cho người khác, thì nghĩa vụ thanh toán trái
phiếu phát sinh một lần nữa. Ta nói rằng sự hòa nhập, suy cho cùng, có tác dụng
làm tê liệt nghĩa vụ hơn là chấm dứt nghĩa vụ.
Hòa
nhập một phần. Trong
trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ đối với một người và một trong số những
người có nghĩa vụ hòa nhập với người có quyền, thì những người còn lại vẫn phải
thực hiện phần nghĩa vụ của họ. Không có điều khoản nào trong luật viết quy
định giải pháp này, nhưng đó là giải pháp duy nhất hợp lý. Ví dụ: A và B (vợ và
chồng) cùng nợ X (cha của A) 100 đồng; X chết, A trở thành người thừa kế; vậy,
di sản của X và A hòa nhập đối với phân nửa số nợ, tức 50 đồng; còn lại B tiếp
tục nợ 50 đồng đối với di sản của X.
Cũng như vậy trong trường hợp nhiều người cùng
có quyền đối với một người và một trong số những người có quyền hòa nhập với
người có nghĩa vụ.
III.
Hết thời hiệu khởi kiện
Khái
niệm. Thời
hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó, thì chủ thể
được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện
(BLDS Ðiều 163). Việc người có quyền yêu cầu mất quyền khởi kiện đòi thực hiện
nghĩa vụ tương ứng với việc người có nghĩa vụ không còn có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ nữa: nghĩa vụ chấm dứt theo thời hiệu.
1. Điều
kiện của thời hiệu
a. Thời
hiệu phải tồn tại
Sự đơn
giản của luật. Trên
nguyên tắc tất cả các nghĩa vụ đều chấm dứt theo thời hiệu. Một cách ngoại lệ,
thời hiệu khởi kiện không được áp dụng trong các trường hợp sau đây (Ðiều 169):
1 - Yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; 2 - yêu cầu bảo vệ quyền
nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; 2 - Các
trường hợp khác do pháp luật quy định.
Vấn đề là: luật hiện hành quy định khá sơ sài
về việc áp dụng thời hiệu đối với các loại nghĩa vụ. Không có thời hiệu tổng
quát. Chỉ có một số ít thời hiệu riêng: thời hiệu đối với quyền yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu trong một số trường hợp; thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối
với vật được chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai; thời hiệu đối với quyền kiện về quyền thừa kế; thời hiệu khởi kiện
yêu cầu chi trả tiền bảo hiểm;... Ðặc biệt, các nghĩa vụ phát sinh từ trách
nhiệm dân sự (cả trong và ngoài hợp đồng) đều không chấm dứt theo thời hiệu
trong khung cảnh của luật thực định. Một người gây tai nạn dẫn đến thiệt hại
cho một người khác có thể phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại chừng
nào người bị thiệt hại hoặc người thừa kế của người này còn nhớ đến quyền khởi
kiện của mình[17][17].
Công việc của tòa án không đơn giản, bởi, nếu không có quy định rành mạch của
luật cho phép khẳng định một quyền yêu cầu (tương ứng với một nghĩa vụ) là có
thời hiệu, thì quyền yêu cầu đó sẽ chấm
dứt sau bao nhiêu năm ?...
Không
áp dụng thời hiệu. Theo
BLDS Điều 166 khoản 3, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự không áp dụng trong
việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước. Thực ra, việc xây dựng khái
niệm “nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước” không phải là việc đơn giản[18][18];
nhưng dẫu sao, tính chất đặc biệt của quy tắc này đã bị giảm sút đáng kể do
luật hiện hành chưa có quy định về thời hiệu áp dụng cả đối với các nghĩa vụ
dân sự xác lập giữa tư nhân với nhau.
b. Cách tính thời hiệu
Đơn vị
tính. Đơn
vị tính thời hiệu là ngày, tháng hoặc năm. Nhưng thời điểm bắt đầu và thời điểm
kết thúc thời hiệu được xác định dựa theo cách xác định ngày tròn. Theo BLDS
Điều 165, thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và kết thúc vào
thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Một cách hợp lý, nếu ngày cuối
cùng của thời hiệu là ngày cuối tuần hoặc ngày lễ, thì thời điểm kết thúc thời
hiệu phải được dời đến cuối ngày kế tiếp của ngày cuối tuần hoặc ngày lễ đó.
Thời
điểm bắt đầu thời hiệu. Thời
hiệu khởi kiện là thời hạn mà hết thời hạn đó, quyền khởi kiện không còn. Bởi
vậy, thời điểm bắt đầu thời hiệu phải là thời điểm mà quyền khởi kiện phát
sinh. Thời điểm phát sinh quyền khởi kiện không nhất thiết là thời điểm phát
sinh quyền yêu cầu. Một người cho vay có quyền yêu cầu người vay trả nợ ngay từ
thời điểm phát vay; nhưng quyền yêu cầu đó chỉ có thể được thực hiện (tức là
người cho vay lên tiếng đòi nợ) khi nào nợ vay đã đến hạn đòi; và cũng chính ở
thời điểm nợ vay đến hạn đòi mà quyền kiện đòi trả nợ vay phát sinh, cho phép
người cho vay yêu cầu buộc người vay trả nợ trong trường hợp người sau này
không tự giác trả nợ.
Một cách tổng quát, thời điểm bắt đầu thời
hiệu khởi kiện là thời điểm đến hạn thực hiện quyền yêu cầu, đồng thời cũng là
thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp quy trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, thì thời hiệu khởi kiện bắt đầu từ ngày quyền và lợi ích bị
xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (BLDS Điều 168)[19][19].
Hoãn
tính thời hiệu. Trên
nguyên tắc, thời hiệu, một khi đã bắt đầu, sẽ chạy một cách liên tục cho đến
khi kết thúc. Tuy nhiên, có những trường hợp mà, do một sự kiện nào đó gây cản
trở, người có quyền yêu cầu dù có muốn cũng không thể thực hiện quyền khởi kiện
của mình. Người làm luật nói rằng trong những trường hợp đó, thời hiệu tạm dừng
cho đến khi những cản trở đối với việc thực hiện quyền khởi kiện chấm dứt. Thời
gian tạm dừng đó tất nhiên là không được tính vào thời hiệu. Người ta nói rằng
trong khoảng thời gian đó, thời hiệu bị “treo” Theo BLDS Điều 170 khoản 1, thời
hiệu bị treo một khi có một trong các sự kiện sau đây.
- Có sự kiện bất khả kháng[20][20]
hoặc trở ngại khách quan làm người khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi
thời hiệu;
- Người có quyền khởi kiện đang chưa thành
niên, đang bị mất năng lực hành vi dân sự, đang bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, nhưng chưa có người đại diện;
- Người đại diện của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
chết, nhưng chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác
mà không thể tiếp tục đại diện được.
Tuy nhiên, trong hai trường hợp sau, người làm
luật lại nói thêm rằng thời gian không tính vào thời hiệu không được quá một
năm kể từ ngày xảy ra sự kiện (Điều 170 khoản 2). Với quy định đó, một số chủ
thể của quan hệ pháp luật, trong một vài trường hợp đặc thù có thể mất quyền
khởi kiện chỉ vì không thể, chứ không phải không muốn, thực hiện quyền đó trong
phạm vi thời hiệu. Cứ hình dung: một người được một trẻ chưa thành niên dưới 15
tuổi (và chưa có người đại diện) tặng cho một tài sản co giá trị lớn; ngay vào
ngày đủ 18 tuổi, người tặng cho mới biết rằng một là, mình không có quyền giao
kết việc tặng cho như thế, hai là, người được tặng cho chỉ là một tên lưu
manh.Thế nhưng, người tặng cho trong giả thiết sẽ không có quyền kiện yêu cầu
tuyên bố hợp đồng tặng cho trước đây vô hiệu: thời hiệu khởi kiện chỉ là một
năm kể từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 145 khoản 1) và chỉ bị treo thêm
một năm do người bị thiệt hại chưa thành niên mà không có người đại diện; thế
mà, từ thời điểm xác lập giao dịch, hơn ba năm đã trôi qua.
Gián
đoạn thời hiệu. Ở góc
độ gián đoạn thời hiệu, luật phân biệt giữa thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự
và thời hiệu khởi kiện.
Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ bị gián đoạn khi
có một trong các sự kiện sau đây (BLDS
Điều 167 khoản 2):
- Có sự giải quyết của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đối với nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu;
- Nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu
mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp.
Thực ra, có trường hợp nghĩa vụ dân sự không
hề bị tranh chấp và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng không được mời để can
thiệp. Đơn giản, nghĩa vụ đến hạn thực hiện và người có quyền yêu cầu đã lên
tiếng yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
Thời hiệu khởi kiện bị gián đoạn trong các
trường hợp sau đây (Điều 171 khoản 1):
- Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc
toàn bộ nghĩa vụ của mình;
- Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần
nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
- Các bên đã tự hoà giải với nhau.
Một khi thời hiệu bị gián đoạn, thì một thời
hiệu mới sẽ bắt đầu. Có trường hợp thời hiệu mới bắt đầu với nghĩa vụ đã tồn
tại trước đó; nhưng cũng có trường hợp thời hiệu mới bắt đầu với một nghĩa vụ
mới. Ví dụ, để yêu cầu tuyên bố một hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, người bị
lừa dối có thời hạn một năm; giả sử
người bị lừa dối khởi kiện vào tháng thứ 11, thời hiệu sẽ bị gián đoạn; khi có
bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và người lừa dối bị buộc bồi thường thiệt hại,
một thời hiệu mới sẽ được áp dụng đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, kể từ
ngày nghĩa vụ này đến hạn thực hiện.
2. Hiệu
lực của việc hết thời hiệu khởi kiện
Mất
quyền yêu cầu. Khi
thời hiệu khởi kiện đã hết thì nghĩa vụ chấm dứt (Ðiều 389). Ở đây, nghĩa vụ
chấm dứt là nghĩa vụ dân sự, tức là nghĩa vụ có thể được Nhà nước cưỡng chế
thực hiện. Hết thời hiệu khởi kiện, người có nghĩa vụ không còn bị ràng buộc vào
nghĩa vụ đó về mặt pháp lý; nhưng không ai cấm người này tự ràng buộc vào nghĩa
vụ đó về mặt đạo đức: nếu xét thấy việc không thực hiện nghĩa vụ là không hợp
đạo lý, người này có thể thực hiện nó một cách tự giác. Luật quy định rằng nếu
thời hiệu đã hết mà nghĩa vụ vẫn được thực hiện, thì người có nghĩa vụ không có
quyền yêu cầu hoàn trả những gì mình đã thực hiện (Ðiều 389). Luật không phân
biệt tuỳ theo người thực hiện nghĩa vụ, khi thực hiện nghĩa vụ đó, biết hay không biết rằng thời hiệu khởi kiện
của người có quyền yêu cầu đã hết.
Cũng vì người có quyền yêu cầu mất quyền yêu
cầu nhưng người có nghĩa vụ không thực sự không còn có nghĩa vụ mà trong trường
hợp một người có quyền yêu cầu mất đi do thời hiệu kiện yêu cầu người có nghĩa
vụ thực hiện nghĩa vụ, chính người có nghĩa vụ, nếu không muốn thực hiện nghĩa
vụ, phải viện dẫn thời hiệu. Nói cách khác, trước Toà án, người có nghĩa vụ
phải chứng minh việc mất quyền yêu cầu do thời hiệu; người có quyền yêu cầu
không có trách nhiệm chứng minh rằng quyền yêu cầu của mình chưa mất đi do thời
hiệu[21][21].
I. Miễn thực hiện nghĩa vụ
Khái
niệm. Miễn
thực hiện nghĩa vụ là hành vi xuất phát từ ý chí của người có quyền yêu cầu
theo đó, người này từ chối thực hiện quyền yêu cầu của mình và miễn cho người
có nghĩa vụ việc thực hiện nghĩa vụ tương ứng. Luật nói rằng nghĩa vụ dân sự
chấm dứt, khi người có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ
(BLDS Ðiều 384 khoản 1). Từ đó có thể nghĩ rằng chỉ cần người có quyền tuyên bố
miễn thực hiện nghĩa vụ, thì nghĩa vụ chấm dứt mà không cần người có nghĩa vụ
bày tỏ ý chí: miễn thực hiện nghĩa vụ trong luật Việt Nam là giao dịch một bên
chứ không phải là một hợp đồng.
Miễn thực hiện nghĩa vụ, đối với người có
quyền, là hành vi định đoạt tài sản không có đền bù: nếu người có quyền chỉ
chấp nhận miễn thực hiện nghĩa vụ với điều kiện có một quyền yêu cầu hoặc một
lợi ích vật chất khác thay thế, thì ta có thay thế nghĩa vụ hoặc thực hiện
nghĩa vụ thay thế.
Xác lập
giao dịch. Là
hành vi định đoạt tài sản không có đền bù, việc miễn thực hiện nghĩa vụ chỉ có
thể được xác lập bởi người có năng lực tặng cho tài sản hoặc có năng lực để lập
di chúc. Người giám hộ không có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ mà người được
giám hộ là người có quyền yêu cầu. Tuy nhiên, do luật không có quy định cụ thể,
việc miễn nghĩa vụ được xác lập theo các quy định của luật chung về hình thức
của giao dịch dân sự, nghĩa là có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản.
Hiệu
lực của việc miễn thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tất nhiên, nếu nghĩa vụ được miễn thực hiện,
thì nghĩa vụ chấm dứt. Luật còn quy định rằng khi nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
được miễn, thì việc bảo đảm cũng chấm dứt (Ðiều 384 khoản 2). Ngoài ra, nếu
người có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ cho một người có nghĩa vụ liên đới, thì
những người khác có nghĩa vụ liên đới cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ
(Ðiều 304 khoản 4); tuy nhiên, nếu trước
khi miễn nghĩa vụ cho một người có nghĩa vụ liên đới, người có quyền yêu cầu đã
bãi bỏ tình trạng liên đới giữa người sau này và những người khác có nghĩa vụ
liên đới, thì những người này vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ (Ðiều 304
khoản 5).
II. Thay thế nghĩa vụ
Khái
niệm. Thay
thế nghĩa vụ là việc các bên thỏa thuận chấm dứt một nghĩa vụ bằng cách tạo ra
một nghĩa vụ mới thay cho nghĩa vụ cũ. Người có quyền yêu cầu trong quan hệ
nghĩa vụ cũ chấp nhận không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đó và, đổi lại, trở
thành người có quyền yêu cầu trong một quan hệ nghĩa vụ mới. Việc thay thế
nghĩa vụ được luật viết dự liệu tại khoản 1 Ðiều 385 BLDS.
Trên nguyên tắc, tất cả các nghĩa vụ đều có
thể được thay thế. Nhưng các nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn
liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được, thì không được thay
thế bằng nghĩa vụ khác (Ðiều 385 khoản 3).
Để có thể được thay thế, nghĩa vụ cũ phải có
giá trị. Thế nhưng, có thể thừa nhận rằng chỉ những nghĩa vụ vô hiệu tuyệt đối
mới không thể được thay thế; các nghĩa vụ vô hiệu tương đối có thể được thay
thế và việc thay thế nghĩa vụ có thể được coi như một lời khẳng định của các
bên về việc chấp nhận nghĩa vụ cũ trước đây.
1. Các
yếu tố của việc thay thế nghĩa vụ
Yếu tố
vật chất. Ðể có
việc thay thế nghĩa vụ, chắc chắn phải có một nghĩa vụ mới được hình thành. Các
dấu hiệu của sự tồn tại của một nghĩa vụ mới có thể được phân thành ba nhóm:
1 - Nghĩa vụ có đối tượng mới - Ví dụ: nghĩa
vụ giao đậu xanh được thay bằng nghĩa vụ giao đậu nành.
2 - Nghĩa vụ có chủ thể mới - Giống như chuyển
giao nghĩa vụ, nhưng chủ thể mới có nghĩa vụ mới chứ không phải nghĩa vụ cũ. Có
hai khả năng:
- Một người thứ ba tự động cam kết với người
có quyền về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ trước với
điều kiện người có quyền từ bỏ quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ trước và
người có quyền chấp nhận. Sự đồng ý của người có nghĩa vụ trước trong trường
hợp này là điều kiện không bắt buộc. Loại cam kết này có lẽ không phù hợp với
câu chữ của khoản 1 Ðiều 385 BLDS: điều luật nói rằng thay thế nghĩa vụ trước
hết là sự thỏa thuận giữa các bên (người có nghĩa vụ và người có quyền).
- Một người thứ ba cam kết với người có quyền
về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ theo yêu cầu của người
sau này (ví dụ: người bán nhà thế chấp yêu cầu người mua thay mình trả nợ cho người
nhận thế chấp) và người có quyền chấp nhận.
3 - Quyền yêu cầu có chủ thể mới - Giống như
chuyển giao quyền yêu cầu, nhưng chủ thể mới có quyền yêu cầu mới chứ không
phải quyền yêu cầu cũ. Ðây là một thỏa thuận tay ba theo đó, người có nghĩa vụ
cam kết thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của một người thứ ba với điều kiện không
phải thực hiện nghĩa vụ nữa đối với người có quyền trước đây; trong khi đó,
chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận tay đôi giữa người chuyển quyền và
người thế quyền và sự thỏa thuận này phát sinh hiệu lực đối với người có nghĩa
vụ trên cơ sở người sau này nhận được thông báo.
Yếu tố
tâm lý. Có
nghĩa vụ mới chưa đủ, sự thay thế nghĩa vụ chỉ trở nên hoàn hảo một khi các bên
bày tỏ ý chí về việc thay nghĩa vụ cũ bằng nghĩa vụ mới. Ðiều quan trọng là
người có quyền yêu cầu phải từ bỏ quyền yêu cầu tương ứng với nghĩa vụ cũ và
chấp nhận quyền yêu cầu tương ứng với nghĩa vụ mới. Có trường hợp các bên tạo
ra nghĩa vụ mới, nhưng không có ý định chấm dứt nghĩa vụ cũ; khi đó, cả hai
nghĩa vụ cùng tồn tại: chủ nợ đồng ý để cha cam kết trả nợ thay cho con nhưng
lại không đồng ý xóa nợ cho con; vậy, chủ nợ có cha của người có nghĩa vụ như
một người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Hiệu
lực của việc thay thế nghĩa vụ
Chấm
dứt một nghĩa vụ cũ có giá trị và phát sinh một nghĩa vụ mới có giá trị. Việc thay thế nghĩa vụ có tác dụng chấm dứt
nghĩa vụ cũ. Nghĩa vụ chấm dứt phải là một nghĩa vụ có giá trị. Nếu nghĩa vụ cũ
vô hiệu, việc thay thế nghĩa vụ không có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ cũ thuộc
loại chỉ có thể được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của một trong các bên liên
quan (vô hiệu tương đối), thì ta nói rằng bằng việc thay thế nghĩa vụ, các bên
xác nhận việc từ bỏ quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với nghĩa vụ cũ, tức là
xác nhận giá trị của nghĩa vụ đó.
Nghĩa vụ mới phải có giá trị và có hiệu lực.
Nếu nghĩa vụ mới vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, thì nghĩa vụ cũ phát sinh trở lại, bởi
nghĩa vụ cũ chấm dứt chỉ vì có nghĩa vụ mới.
Tính
độc lập của nghĩa vụ mới. Nghĩa
vụ có thời hạn thực hiện riêng không liên quan đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ
cũ. Nghĩa vụ mới có thời hiệu riêng tương ứng với thời hiệu khởi kiện riêng của
người có quyền yêu cầu, tính từ ngày nghĩa vụ mới đến hạn thực hiện.
Các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bị thay thế. Luật không có quy định về số phận của các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ được thay thế.
Dẫu sao, nếu đã công nhận tính độc lập của nghĩa vụ thay thế, ta không thể công
nhận việc duy trì đương nhiên các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũ đối
với nghĩa vụ thay thế. Các bên liên quan có thể đạt được việc duy trì ấy bằng
một thỏa thuận; nhưng nếu không có thỏa thuận, thì các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ cũ chấm dứt khi nghĩa vụ này chấm dứt. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ
mới vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũ lại
được tái lập cùng với việc tái lập nghĩa
vụ cũ.
III.
Thực hiện nghĩa vụ thay thế
Khái
niệm. Thực
hiện nghĩa vụ thay thế, trong luật thực định Việt Nam, là trường hợp đặc biệt
của thay thế nghĩa vụ trong đó, người có quyền tiếp nhận một tài sản hoặc một
công việc thay thế cho tài sản hoặc công việc đã được thỏa thuận trước đó (BLDS
Ðiều 385 khoản 2). Nghĩa vụ cũ chấm dứt cùng với các biện pháp bảo đảm, nếu có;
còn nghĩa vụ mới được thực hiện ngay lập tức và cũng chấm dứt. Nếu nghĩa vụ mới
bị tuyên bố vô hiệu, thì nghĩa vụ cũ phát sinh trở lại cùng với các biện pháp
bảo đảm.
Trong trường hợp nghĩa vụ thay thế được thực
hiện là nghĩa vụ chuyển giao một tài sản, thì người chuyển giao còn có các
nghĩa vụ của một người bán hoặc người trao đổi: nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu,
nghĩa vụ bảo hành,....
IV.
Chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận
Huỷ bỏ
hoặc đình chỉ theo thoả thuận ? Quyền
và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ? - Trên nguyên tắc, các bên giao kết hợp
đồng có quyền thỏa thuận việc chấm dứt thực hiện hợp đồng, dù khi giao kết hợp
đồng, các bên đã không dự liệu khả năng chấm dứt theo cách đó trong hợp đồng
(Ðiều 418 khoản 2). Hủy bỏ một hợp đồng mua bán, người mua trả lại tài sản,
người bán trả lại tiền mua tài sản; chấm dứt một hợp đồng lao động trước thời
hạn (đúng ra là đình chỉ), người sử dụng lao động trả lương cho người lao động
đến ngày nghỉ việc và người lao động bàn giao lại công việc đã làm cho đến ngày
đó cùng với các hồ sơ, giấy tờ liên quan, nếu có.
Vấn đề là: không được thỏa thuận trước, cũng
không được pháp luật quy định, việc chấm dứt hợp đồng theo cách đó, trong một vài trường hợp đặc
thù, có thể đưa các quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba có liên quan vào tình trạng không được bảo vệ, nhất là
một khi hợp đồng bị hủy bỏ. Ví dụ: hai bên giao kết hợp đồng mua bán nhà ở; ít
lâu sau người mua tìm được một người khác chấp nhận mua lại căn nhà; hai bên
giao kết hợp đồng mua bán thứ nhất thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng để người bán giao
kết hợp đồng thứ hai, trực tiếp với người mua lại. Người mua trong hợp đồng thứ
nhất sẽ thu tiền và giao nhà, còn người bán trong hợp đồng thứ nhất nhận được
một số tiền thù lao dịch vụ. Lợi ích của các bên trong việc hủy bỏ trong trường
hợp này rất dễ nhận thấy: những người có liên quan thực hiện hai vụ mua bán
liên tiếp trên một bất động sản, nhưng chỉ phải tiến hành đăng ký sang tên và
nộp lệ phí trước bạ một lần. Luật Việt Nam hiện hành chưa có biện pháp đối phó với những toan tính không chính đáng
có thể có trong những thỏa thuận loại này.
[1][1] Về một trong những
trường hợp quyền yêu cầu biểu kiến được thừa nhận trong luật Việt Nam: Thừa kế, nxb Trẻ, 1999, tr. 364 và 365.
[2][2] Nghĩa vụ liên đới phát sinh do
các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định (Ðiều 304 khoản 2). Vậy có nghĩa
rằng nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, thì, một khi
nhiều người có cùng một nghĩa vụ, nghĩa vụ đó sẽ được mỗi người thực hiện riêng
rẽ.
[3][3] Việc chia sẻ tổn thất
giữa những người có nghĩa vụ liên đới trong trường hợp một người trong số họ
mất khả năng thanh toán khiến cho quan hệ nghĩa vụ liên đới có tác dụng của một
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu. Cứ hình dung: có ba
người mắc nợ liên đới, trong đó hai người không còn khả năng thanh toán; chủ nợ
có quyền yêu cầu người duy nhất có khả năng thanh toán trả toàn bộ số nợ; còn
việc người mắc nợ này có đòi lại được phần mình đã trả hộ cho những người khác
hay không, là chuyện nội bộ của ba người và không làm chủ nợ bận tâm.
[4][4] Trong luật của Pháp
quan hệ nghĩa vụ liên can được xác lập cả trong lĩnh vực cấp dưỡng. Có vẻ như
đây không phải là giải pháp được chấp nhận trong luật Việt Nam, dù các quy định
liên quan của luật viết hiện hành không nói rõ. Trong suy nghĩ phù hợp với đạo
lý của con người Việt, cấp dưỡng là biện pháp tương trợ giữa các thành viên
trong gia đình; bởi vậy, tất cả các thành viên trong gia đình đều có chung một
nghĩa vụ cấp dưỡng đối với một thành viên nào đó của gia đình mà lâm vào cảnh
sống túng thiếu.
Vấn đề, dẫu sao sẽ trở nên tế nhị
trong trường hợp không có quan hệ gia đình giữa những người có nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với cùng một người. Người vợ, có con riêng đã thành niên, ly hôn với
người chồng sau và rơi vào cảnh sống khó khăn. Người vợ trong trường hợp này có
quyền yêu cầu chồng sau và con riêng cấp dưỡng. Khó có thể nhìn nhận rằng những
người được yêu cầu trong trường hợp này có chung một nghĩa vụ mà họ phải liên
đới thực hiện.
[5][5] Cần lưu ý rằng trong
trường hợp trả tiền bằng ngân phiếu hoặc nói chung bằng bất kỳ phương tiện
thanh toán nào qua ngân hàng, thì thời điểm hoàn thành nghĩa vụ không phải là
thời điểm ngân phiếu hoặc chứng từ thanh toán được chuyển giao cho người có
quyền yêu cầu mà từ thời điểm số tiền được ghi nhận trên ngân phiếu hoặc chứng
từ thanh toán ở trong tình trạng thuộc quyền sở hữu của người có quyền yêu cầu.
Nếu người có quyền yêu cầu có tài khoản tại một ngân hàng và muốn chuyển số
tiền được trả vào tài khoản đó, thì nghĩa vụ trả tiền (thực hiện bằng ngân
phiếu hoặc chứng từ khác) hoàn thành khi việc chuyển tiền vào tài khoản hoàn
tất.
[6][6] Trong luật của Pháp,
nếu không có thoả thuận khác, thì nơi thực hiện nghĩa vụ, trên nguyên tắc, là
nơi cư trú của người có nghĩa vụ. Cá biệt, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện
tại nơi cư trú của người có quyền yêu cầu cấp dưỡng.
[7][7] Luật không dự liệu
quyền của người có quyền trong những trường hợp người có nghĩa vụ không thực
quyền của mình trong những hoàn cảnh rất giống như hoàn cảnh của chủ nợ của một
chủ sở hữu chung được nói đến tại BLDS Điều 238 khoản 2. Ví dụ, người có nghĩa
vụ không chịu đòi nợ đến hạn, không đăng ký tên mình vào danh sách chủ nợ đối
với một người mắc nợ của mình mà bị phá sản,...
[8][8] Cần nhấn mạnh rằng, khác
với quyền khởi kiện chéo, luật không hề đòi hỏi quyền yêu cầu của người khởi
kiện trong trường hợp này phải đến hạn thực hiện.
[9][9] Riêng đối với chủ nợ
của người thừa kế, thì việc trả người thừa kế trở lại tình trạng ban đầu tự nó
không đem lại lợi ích thiết thực nào, bởi điều mà chủ nợ mong muốn là người
thừa kế nhận di sản để có tài sản mà trả nợ. Đáng lý ra, sau khi việc từ chối
nhận di sản bị tuyên bố vô hiệu, chủ nợ, nếu thấy người thừa kế cứ lưỡng lự
không chịu nhận di sản, thì có quyền tiến hành tiếp một vụ kiện chéo mà trong
khuôn khổ vụ kiện đó, chủ nợ yêu cầu được thay mặt người thừa kế để nhận di
sản. Luật Việt Nam hiện hành không thừa nhận cho chủ nợ quyền khởi kiện chéo
trong trường hợp này.
Dẫu sao, nếu người thừa kế không từ chối di sản,
thì sẽ trở thành người nhận di sản khi hết hạn từ chối. Mà thời hạn từ chối
trong luật Việt nam hiện hành lại không dài lắm, chỉ 6 tháng kể từ ngày mở thừa
kế.
[10][10]
Người có
quyền có thể thoả thuận với người có nghĩa vụ về việc bảo đảm khả năng thanh
toán của người được chuyển giao nghĩa vụ. Luật, về phần mình, không chủ động
ràng buộc người chuyển giao nghĩa vụ bằng một nghĩa vụ bảo đảm pháp định.
[12][12]
Trong
luật của Pháp, việc huỷ bỏ hợp đồng theo ý chí đơn phương của một bên và không
cần đến vai trò của Toà án được chấp nhận trong một số trường hợp và được coi
là các ngoại lệ đối với nguyên tắc huỷ bỏ hợp đồng bằng con đường tư pháp.
[14][14]
Theo
người làm luật Việt nam, thì hợp đồng vay tài sản không phải là hợp đồng đơn
vụ. Tuy nhiên, tính chất song vụ của hợp đồng vay không được nhìn nhận trong
thực tiễn một khi đối tượng của hợp đồng là một số tiền.
[15][15]
Trong
luật La Mã có chế định exceptio non
adimpleti contractus, một chế định đặc biệt cho phép người có nghĩa vụ theo
một hợp đồng song vụ trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ cho đến khi nào người có
quyền yêu cầu (đồng thời cũng là người có nghĩa vụ đối với mình) tỏ ra sẵn sàng
thực hiện nghĩa vụ của người sau này. Biện pháp trì hoãn thực hiện nghĩa vụ chỉ
được phép thực hiện trong các trường hợp các nghĩa vụ theo hợp đồng song vụ
phải được thực hiện cùng một lúc.
[16][16]
Trong
luật của Pháp, người mong muốn thụ hưởng các lợi ích của việc bù trừ nghĩa vụ
phải viện dẫn sự bù trừ. Toà án không có
trách nhiệm chủ động đặt và giải quyết vấn đề liệu nghĩa vụ bị buộc thực hiện
có thể bù trừ được hay không với nghĩa vụ khác.
[17][17]
Không mất
nhiều thì gìờ, người nghiên cứu luật có thể nhìn nhận rằng việc không có quy
định cụ thể về thời hiệu cho các nghĩa vụ dân sự là do sự sơ suất của người làm
luật, chứ không phải do ngừoi làm luật mong muốn như thế. Có thể hình dung
trong khung cảnh của luật thực định: một người vô ý làm cho một người khác bị
thương; 5 năm sau, người này không còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
do đã hết thời hiệu (BLHS Điều 23 khoản 2, a); nhưng đến 10 năm sau, người này
vẫn còn có thể bị quy trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại, do nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại không chịu sự chi phối của thời hiệu.
[18][18]
Có thể
hình dung: Nhà nước tiến hành bán đấu giá quyền sử dụng đất và người trúng đấu
giá có nghĩa vụ trả tiền; một người huỷ hoại tài sản của Nhà nước, bị xử phạt
tù đồng thời phải bồi thường thiệt hại cho Nhà nước;... Cần phân biệt giữa
nghĩa vụ đối với Nhà nước và nghĩa vụ đối với cơ quan Nhà nước hoặc doanh
nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân. Các cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp
Nhà nước có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận có tư cách chủ thể quan
hệ pháp luật của riêng mình, độc lập với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của
Nhà nước. Trong điều kiện chế độ pháp lý
áp dụng đối với tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan Nhà nước hoặc doanh
nghiệp Nhà nước chưa rõ ràng, sự phân biệt giữa hai loại nghĩa vụ nói trên tỏ
ra không đơn giản: người bán nhà cho doanh nghiệp Nhà nước có thể là người có
nghĩa vụ đối với doanh nghiệp mua nhà, chứ không phải đối với Nhà nước; nhưng
người đốt căn nhà đó có thể là người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với
Nhà nước, chứ không phải đối với doanh nghiệp.
[19][19]
Đáng lý
ra phải phân biệt giữa thời điểm thực hiện hành vi hoặc thời điểm xảy ra sự
kiện dẫn đến thiệt hại với thời điểm người bị thiệt hại có quyền khởi kiện. Có
trường hợp một người giao kết hợp đồng do bị lừa dối, nhưng sau đó một thời
gian mới biết rằng mình đã bị lừa. Trong khung cảnh của luật hiện hành, một
người mà biết mình bị lừa quá trễ, sẽ không còn có quyền kiện do hết thời hiệu.
Trong luật của nhiều nước, thời hiệu trong trường hợp này chỉ bắt đầu từ thời
điểm đương sự biết được sự việc.
[20][20]
Sự kiện
bất khả kháng, theo định nghĩa của luật là “sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được, mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép”.
[21][21] Tuy nhiên, nếu người
có nghĩa vụ đã viện dẫn được thời hạn bằng một con số, thì người có quyền yêu
cầu, nếu muốn cho rằng thời hạn đó bị gián đoạn hoặc bi treo, thì phải chứng
minh được sự kiện có tác dụng làm gián đoạn hoặc làm treo thời hạn. Ví dụ, một
nghĩa vụ đến hạn thực hiện vào năm 2000 và có thời hiệu 10 năm.; người có quyền
yêu cầu kiện vào năm thứ 11; người có nghĩa vụ mà không muốn thực hiện nghĩa vụ
phải viện dẫn thời hiệu; người có quyền mà muốn bác bỏ lý lẽ được viện dẫn đó,
phải chứng minh rằng thời hiệu đã bị gián đoạn hoặc bị treo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét