Pages

Quan hệ pháp luật dân sự

QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
 A. KHÁI NIỆM QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
I. QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1. Quan hệ pháp luật dân sự  
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội khác nhau. Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật, vì vậy, nó mang đầy đủ đặc tính của quan hệ pháp luật về bản chất xã hội, bản chất pháp lí, tính cưỡng chế nhà nước...

Do tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội nên các bên tham gia vào các quan hệ đó có các quyền và nghĩa vụ pháp lí tương ứng. Các quyền, nghĩa vụ pháp lí này được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự tác động của các quy phạm pháp luật vào các quan hệ xã hội không làm mất đi tính xã hội của các quan hệ đó mà làm cho các quan hệ này mang một hình thức mới "quan hệ pháp luật". Hậu quả của nó là các quyền và nghĩa vụ của các bên được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí - ý chí của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội tồn tại trong xã hội đó vào thời điểm lịch sử nhất định. Ngoài ra, các quan hệ pháp luật còn mang ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của Nhà nước và được thể hiện khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn của nó (phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt). Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh, lúc thực hiện hay chấm dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham gia vào các quan hệ này phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy phạm pháp luật dân sự và các nguyên tắc chung của luật dân sự được quy định trong BLDS.
2. Đặc điểm các quan hệ pháp luật dân sự
Ngoài các đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật dân sự còn mang những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này xuất phát từ bản chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh và những đặc điểm của phương pháp điều chỉnh.
- Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân - những quan hệ phát sinh trong đời sống thường nhật của các cá nhân cũng như trong các tập thể, trong tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cho nên, cá nhân và tổ chức đều là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
 Trong giao lưu dân sự, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước với tư cách là chủ thể đặc biệt tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể này độc lập với nhau về tổ chức và tài sản, được quyền tự định đoạt khi tham gia vào các quan hệ nhưng buộc phải thực hiện các nghĩa vụ khi đã tham gia vào các quan hệ đó.
- Địa vị pháp lí của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác. Mặc dù trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các bên tham gia là các chủ thể đối lập nhau trong việc phân định quyền và nghĩa vụ: Một bên mang quyền, một bên gánh chịu nghĩa vụ và thông thường, trong quan hệ dân sự, các bên đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi sự bình đẳng mà nó chỉ hạn chế sự bình đẳng so với trước khi tham gia vào quan hệ dân sự. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, các bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất cho các bên.
- Lợi ích (trước tiên là lợi ích kinh tế) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự. Quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật đã tạo điều kiện cho các chủ thể thông qua các biện pháp pháp lí để thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. Bởi vậy, bồi thường toàn bộ thiệt hại là đặc trưng của trách nhiệm dân sự. Quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản, do vậy, yếu tố tài sản là cơ sở, là tiền đề phát sinh quan hệ dân sự, cho nên bảo đảm bằng tài sản là đặc trưng để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của họ và bên có quyền có thể thông qua các biện pháp bảo đảm này để thoả mãn các quyền tài sản của mình.
- Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể tự các bên quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể về hình thức áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế trong luật dân sự.
II. THÀNH PHẦN CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành nên quan hệ đó. Quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các thành tố sau: Chủ thể, khách thể, nội dung.
1. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những "người" tham gia vào các quan hệ đó. Phạm vi "người" tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân, (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.
Để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các chủ thể phải có đủ tư cách chủ thể. Cho nên, có loại quan hệ chủ thể là công dân, như công dân có quyền để lại di sản thừa kế còn các tổ chức chỉ được hưởng thừa kế theo di chúc; có loại chủ thể chỉ được tham gia vào loại quan hệ nhất định, như hộ gia đình được tham gia trong các quan hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hay Nhà nước là chủ sở hữu (thực hiện quyền của chủ sở hữu) đối với các tài nguyên thiên nhiên và đất đai... Trong phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia là công dân, pháp nhân, Nhà nước, hộ gia đình, tổ hợp tác như các quan hệ về quyền sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại...
Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể quyền luôn luôn được xác định, chủ thể nghĩa vụ có thể là một "người" cụ thể, cũng có thể là tất cả những người còn lại.
2. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự
Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lí, là bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật. Đó là những cái mà các chủ thể của quan hệ pháp luật hướng tới, tác động vào. Nói cách khác, là những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là bộ phận của thế giới vật chất, cũng có thể là những giá trị tinh thần. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành năm nhóm sau:
a. Tài sản
Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được nhu cầu nào đó của con người nhưng không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này không được coi là vật nhưng ở dạng khác lại được coi là vật, ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước sông, nước biển... nếu được đóng vào chai, bình thì có thể được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Khái niệm vật ở đây có thể được mở rộng do sự phát triển của khoa học công nghệ, như chất thải nếu được dùng lại...
Tiền là loại tài sản đặc biệt có giá trị trao đổi với các loại hàng hoá khác. Tiền do Nhà nước ban hành, giá trị của tiền được xác định bằng mệnh giá ghi trên đồng tiền đó. Những đồng tiền có giá trị lưu hành mới được coi là tiền.
Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức phát hành theo trình tự nhất định. Có nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau với những quy chế pháp lí khác nhau như: Công trái, trái phiếu, kì phiếu, cổ phiếu, séc… Giấy tờ có giá là hàng hoá trong một thị trường đặc biệt - thị trường chứng khoán.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong lưu thông dân sự, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ, đó là: Quyền đòi nợ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền đối với tác phẩm, quyền sở hữu công nghiệp…
Cần phân biệt vật với hàng hóa. Khái niệm hàng hóa được đề cập trong chính trị - kinh tế học được hiểu là sản phẩm do con người tạo ra để trao đổi, nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên được coi là vật nhưng không phải là hàng hóa. Mọi hàng hóa đều là vật nhưng không phải mọi vật là hàng hóa.
Vật và tài sản cũng không đồng nghĩa với nhau. Tài sản có thể là một vật, có thể là tập hợp các vật - khối tài sản. Tài sản còn gồm cả các quyền và nghĩa vụ tài sản như quyền đòi nợ, nghĩa vụ trả nợ...
b. Hành vi và các dịch vụ
Nếu coi khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà xử sự của các chủ thể hướng tới, tác động vào thì hành vi của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là khách thể của quan hệ nghĩa vụ. Đó là cái mà quyền cũng như nghĩa vụ của các chủ thể hướng tới đầu tiên, trực tiếp, đó là xử sự của các chủ thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động tùy theo các quan hệ pháp luật cụ thể.
Có những hành vi mà kết quả của nó được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể. Trong trường hợp này, muốn xem xét hành vi có thực hiện đúng hay không phải căn cứ vào kết quả của việc thực hiện hành vi đó và như vậy hành vi này được vật chất hóa. Vì vậy, có quan điểm cho rằng kết quả của hành vi là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Điều này không thể giải thích được trong các quan hệ dân sự mà hành vi không được vật chất hóa như tư vấn pháp luật với hành vi tư vấn... Trong các trường hợp như vậy, căn cứ đánh giá chỉ có thể là hành vi của người phải thực hiện hành vi mà thôi. Trong trường hợp hành vi được thể hiện bằng không hành động thì bản thân "sự không hành động" đó cũng đủ cấu thành khách thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Hiện nay, trong khoa học pháp lí chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm dịch vụ nhưng thuật ngữ "dịch vụ" đã được sử dụng thực tế trong khoa học pháp lí và khoa học kinh tế. Có thể nói rằng dịch vụ là một hoặc nhiều công việc mà kết quả của nó có thể vật chất hoá nhưng nó không tạo ra vật mới mà nó được thể hiện bằng công việc đã thực hiện xong như sửa chữa tài sản… hoặc không được vật chất hóa, như dịch vụ tư vấn pháp lí, gửi giữ, vận tải... Dịch vụ không trực tiếp tạo ra vật chất nhưng tạo tiền đề cho quá trình sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho các chủ thể và xã hội. Tỉ lệ giá trị dịch vụ trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng theo đà tăng trưởng của nền kinh tế.
c. Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo
Con người không chỉ tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình mà còn tạo ra các giá trị tinh thần, các sản phẩm trí tuệ để phục vụ nhu cầu tinh thần cũng như phục vụ cho quá trình sản xuất vật chất. Khoa học, kĩ thuật và công nghệ là thành tố của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và là động lực quan trọng của sản xuất xã hội. Lao động sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo này là những "sản phẩm trí tuệ", là khách thể trong các quan hệ về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng:
- Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học... Đây là những hình thức biểu hiện kết quả của quá trình sáng tạo và chúng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như viết, nói hay bằng các phương tiện kĩ thuật...
- Các đối tượng của sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp... Những đối tượng này chỉ được bảo vệ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận chúng là đối tượng của sở hữu công nghiệp.
d. Các giá trị nhân thân
Các giá trị nhân thân là khách thể trong các quyền nhân thân của công dân, tổ chức. Bảo vệ quyền nhân thân là một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong BLDS. Các quyền nhân thân của cá nhân được Nhà nước bảo hộ ngày càng mở rộng do sự phát triển của xã hội. Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu thành của quyền con người như danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch, hình ảnh, bí mật đời tư... (từ Điều 24 đến Điều 51 BLDS năm 2005). Về nguyên tắc chung, các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển được trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
đ. Quyền sử dụng đất
Đây là một loại tài sản đặc biệt của Nhà nước. Trong khi pháp luật quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí" thì quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, để lại thừa kế... và Nhà nước công nhận các quyền của người sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật quy định là một quyền dân sự và có thể được chuyển giao trong lưu thông dân sự, kinh tế. Pháp luật đất đai quy định người sử dụng đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, cho thuê lại, góp vốn, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và là di sản trong việc thừa kế quyền sử dụng đất.
3. Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự
Mọi quan hệ pháp luật đều là mối liên hệ pháp lí giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó được thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Vì vậy, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia tạo thành mối liên hệ biện chứng, mâu thuẫn và thống nhất trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trong những quan hệ đơn giản, có thể dễ dàng xác định trong đó một bên chỉ có quyền và một bên chỉ có nghĩa vụ (người cho vay và người vay tài sản…). Nhưng thông thường, các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ phức tạp, trong đó các bên có quyền đồng thời có nghĩa vụ với nhau (trong quan hệ mua bán, cho thuê tài sản…).
a. Quyền dân sự
Theo quy định của pháp luật, quyền dân sự là cách xử sự được phép của người có quyền năng.
 Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể khác nhau thì có nội dung khác nhau (những xử sự khác nhau phù hợp với nội dung của quan hệ đó). Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có thể thực hiện những hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó như chủ sở hữu có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định... Thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền của mình hoặc quyền yêu cầu người khác (người có nghĩa vụ) thực hiện các hành vi nhất định (trả tiền, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc...). Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền của mình thông qua hành vi của người khác (uỷ quyền).
Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép (tự bảo vệ, các biện pháp tác động...) hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó bị xâm hại.
Trong khoa học pháp lí tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền khách quan. Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho các chủ thể, là nội dung năng lực pháp luật của chủ thể (khả năng có thể có của chủ thể). Quyền chủ quan là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ dân sự cụ thể đã được xác lập. Quyền chủ quan phải phù hợp với quyền khách quan mà pháp luật đã quy định.
b. Nghĩa vụ dân sự
Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự của các chủ thể cũng rất khác nhau tùy theo từng quan hệ dân sự cụ thể. Trong các quy phạm pháp luật dân sự, các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi tham gia vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Các quy phạm mệnh lệnh dưới dạng "cấm không được làm" hoặc "phải làm" có một ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy phạm này, phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ dạng này do pháp luật quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý nghĩa đối với Nhà nước, đối với xã hội.
Thông thường, trong các quan hệ dân sự, nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng với quyền của chủ thể khác - những chủ thể xác định. Người có nghĩa vụ có thể phải thực hiện những hành vi tích cực dưới dạng hành động (như trả tiền, giao vật trong mua bán; thực hiện công việc trong dịch vụ, gia công...). Trong một số trường hợp, nội dung của quan hệ pháp luật quy định người có nghĩa vụ có thể lựa chọn cách thức xử sự có lợi nhất cho họ. (Ví dụ: Để bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại gây ra, người có nghĩa vụ có thể bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật hay sửa chữa đồ vật bị hư hỏng). Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ một cách tự nguyện sẽ bị "buộc" phải thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Ngoài ra, nếu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
III. PHÂN LOẠI QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Các quan hệ pháp luật dân sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát sinh... Việc phân loại các quan hệ pháp luật dân sự không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa cả về mặt thực tế để hiểu đúng quan hệ giữa các bên và áp dụng đúng pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra. Có nhiều cách phân loại khác nhau, mỗi cách phân loại đều được dựa vào những căn cứ cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn nhất định.
- Quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân
Căn cứ vào nhóm quan hệ mà pháp luật dân sự điều chỉnh, quan hệ pháp luật dân sự được phân thành quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
+ Quan hệ tài sản luôn gắn với một tài sản nhất định hoặc chuyển dịch tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay thừa kế tài sản...).
+ Quan hệ nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác (quyền đứng tên tác giả các tác phẩm văn học, khoa học, tác phẩm nghệ thuật, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín...).
Việc phân định các quan hệ pháp luật dân sự theo nhóm quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Ví dụ: Nếu vi phạm các nghĩa vụ về tài sản sẽ áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản, ngược lại, nếu vi phạm các quan hệ về nhân thân sẽ áp dụng các biện pháp khác nhằm hồi phục lại tình trạng ban đầu (công nhận quyền tác giả, công khai xin lỗi, cải chính...).
- Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối, tương đối
Căn cứ vào tính xác định của chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ, quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối.
+ Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối nếu trong quan hệ đó, chủ thể quyền được xác định, tất cả các chủ thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. Nghĩa vụ của họ được thể hiện dưới dạng không hành động (không thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quyền lợi của chủ thể có quyền). Quan hệ tuyệt đối có thể là quyền sở hữu, quyền tác giả đối với tài sản trí tuệ... Trong những quan hệ này, chủ sở hữu, tác giả là người có quyền, những chủ thể khác là chủ thể nghĩa vụ. Họ có nghĩa vụ tôn trọng chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của mình, không xâm phạm đến quyền tác giả. Các loại quyền tuyệt đối thường được pháp luật ghi nhận mà không được tạo bởi sự thoả thuận của các bên.
Việc xác định này có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền cho người có quyền. Bất cứ hành vi nào xâm phạm đến các quyền năng của chủ thể quyền đều coi là vi phạm quyền bảo vệ tuyệt đối.
+ Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là những quan hệ pháp luật trong đó ứng với chủ thể quyền xác định là những chủ thể mang nghĩa vụ cũng được xác định (trong các quan hệ nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại...).
- Quan hệ vật quyền và quan hệ trái quyền
Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình, vào sự tác động của chủ thể, vào hành vi thực hiện, quan hệ dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và quan hệ trái quyền.
+ Quan hệ vật quyền liên quan đến một vật nhất định. Chủ thể quyền có thể thoả mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của chính mình, không phụ thuộc vào hành vi của người khác (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng tài sản...).
+ Quan hệ trái quyền là những quan hệ dân sự trong đó chủ thể có quyền thực hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của chủ thể có nghĩa vụ, phụ thuộc vào ý chí của người khác. Người có quyền có thể "yêu cầu" người có nghĩa vụ thực hiện những hành vi là khách thể của quan hệ nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ.
IV. CĂN CỨ LÀM PHÁT SINH, THAY ĐỔI, CHẤM DỨT QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Cũng như những quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt do những sự kiện nhất định - những sự kiện pháp lí.
1. Sự kiện pháp lí
Là những sự kiện xảy ra trong thực tế mà pháp luật dự liệu, quy định làm phát sinh các hậu quả pháp lí (có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự). Một sự kiện xảy ra trong thực tế có thể làm phát sinh nhiều hậu quả pháp lí, ví dụ: Một người chết làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ đồng thời làm phát sinh quan hệ thừa kế. Có thể nhiều sự kiện pháp lí làm phát sinh một hậu quả pháp lí, như một người chết có di sản thừa kế, có di chúc hợp pháp để lại làm phát sinh thừa kế theo di chúc. Nếu cái chết đó do một hành vi phạm tội sẽ làm phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Có nhiều trường hợp phải có nhiều sự kiện pháp lí mới làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Đa số quan hệ pháp luật dân sự được phát sinh từ nhiều sự kiện pháp lí. Tập hợp các sự kiện pháp lí làm phát sinh hậu quả pháp lí được gọi là thành phần các sự kiện pháp lí.
2. Phân loại sự kiện pháp lí
Có nhiều cách phân chia sự kiện pháp lí, dựa vào hậu quả pháp lí và các giai đoạn biến động của quan hệ pháp luật dân sự có thể phân chia sự kiện pháp lí thành các sự kiện làm phát sinh, các sự kiện làm thay đổi, các sự kiện làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Nhưng thông thường các sự kiện pháp lí được phận loại theo nguồn gốc phát sinh.
a. Hành vi pháp lí
Là hành vi có mục đích của các chủ thể nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lí (phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự). Hành vi pháp lí được coi là căn cứ phổ biến nhất được luật dân sự quy định làm phát sinh hậu quả pháp lí. Đó là phương tiện để thực hiện ý chí của các chủ thể tạo ra các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng. Các hành vi pháp lí được phân chia thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.
- Hành vi hợp pháp là những hành vi có chủ định của các chủ thể được tiến hành phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự (như sự giao kết hợp đồng mua bán tài sản làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên mua bán).
- Hành vi bất hợp pháp là những hành vi được thực hiện trái với quy định của pháp luật, các nguyên tắc chung của pháp luật và đạo đức xã hội. Khi có hành vi bất hợp pháp sẽ bị áp dụng các chế tài của pháp luật làm phát sinh hậu quả pháp lí (không thực hiện hợp đồng, gây thiệt hại cho người khác).
- Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hậu quả pháp lí cũng thuộc hành vi pháp lí (quyết định cấp đất, phán quyết của toà án về bồi thường thiệt hại).
b. Sự biến pháp lí
Sự biến pháp lí là những sự kiện xảy ra không phụ thuộc vào ý muốn của con người nói chung và những người tham gia vào quan hệ dân sự nói riêng. Sự biến pháp lí chỉ có ý nghĩa khi pháp luật quy định trước những hậu quả pháp lí.
- Sự biến tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn của con người (động đất, núi lửa, lũ lụt, sét..).
- Sự biến tương đối là những sự kiện xảy ra do hành vi của con người tiến hành nhưng không phụ thuộc vào hành vi của chủ thể tham gia và làm phát sinh hậu quả pháp lí đối với họ.
c. Thời hạn
Là sự kiện pháp lí đặc biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Thời gian là khái niệm thuộc phạm trù triết học không có bắt đầu và kết thúc, thời gian trôi đi không phụ thuộc vào ý chí của con người. Đến một thời điểm nhất định nào đó, theo quy định của luật dân sự sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lí (thời hiệu hưởng quyền, miễn trừ nghĩa vụ, thời hiệu khởi kiện).
B. CÁ NHÂN - CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
I. NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
1. Khái niệm năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là "tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Cá nhân - con người là trung tâm của các chính sách kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện với mục đích phục vụ con người, vì con người. Trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà luật dân sự điều chỉnh thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào các quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để tham gia vào quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây là năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
"Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự" (khoản 1 Điều 14 BLDS năm 2005). Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, có nghĩa vụ; là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.
2. Đặc điểm của năng lực pháp luật của cá nhân
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
Mặc dù được ghi nhận như là một bộ phận không thể thiếu được của cá nhân, như là một thực thể trong các quan hệ xã hội, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phải do tạo hóa ban cho như những nhà chính trị, triết học tư sản thường suy diễn và kết luận, mà do nhà nước ghi nhận và quy định cho công dân của nhà nước đó. Bởi vậy, năng lực pháp luật dân sự của công dân mang bản chất giai cấp. Đã có thời kì một nhóm người sinh ra không phải là chủ thể của các quan hệ xã hội mà là khách thể của các quan hệ đó, là công cụ biết nói (một bộ phận trong xã hội chiếm hữu nô lệ - nô lệ). Vì vậy, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, năng lực pháp luật dân sự cũng được quy định khác nhau.
Trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở những nước khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của công dân cũng khác nhau, thậm chí khái niệm về quyền dân sự cũng khác nhau (năng lực pháp luật dân sự của công dân Cộng hòa Pháp khác với năng lực pháp luật dân sự của công dân vương quốc Anh...).
Trong cùng một nước, cùng một hình thái kinh tế - xã hội, vào những thời điểm lịch sử khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng được quy định khác nhau. Điều này phụ thuộc vào đường lối, chính sách của giai cấp thống trị trong xã hội đó mà nội dung phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị tồn tại trong xã hội vào thời điểm lịch sử đó. Ví dụ: Trước năm 1980, cá nhân có quyền sở hữu đất đai; từ năm 1980 đến 1992, cá nhân không có quyền sở hữu đối với đất đai; từ năm 1992, cá nhân có quyền chuyển dịch quyền sử dụng đất và các quyền năng đó được mở rộng sau khi có Luật đất đai năm 2003 và BLDS năm 2005.
- Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật, khoản 2 Điều 14 BLDS quy định: "Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau". Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào (độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tôn giáo, dân tộc...). Mọi cá nhân công dân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà chỉ là tiền đề để cho công dân có các quyền dân sự cụ thể. Tuy nhiên, chủ thể không có khả năng hưởng quyền thì cũng không thể có quyền dân sự cụ thể được.
Có ý kiến cho rằng năng lực pháp luật dân sự của công dân không thể bình đẳng với lí do năng lực pháp luật bao gồm cả quyền và nghĩa vụ. Cho nên, công dân chỉ bình đẳng về khả năng hưởng quyền mà không bình đẳng về việc gánh chịu nghĩa vụ (như người không có năng lực hành vi không phải bồi thường thiệt hại...). Nhìn về hình thức có thể thấy được cơ sở của ý kiến trên nhưng như trên đã trình bày, năng lực pháp luật dân sự chỉ là khả năng hưởng quyền và nghĩa vụ. Những người không có năng lực hành vi dân sự không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng nghĩa vụ về mặt pháp lí vẫn là của họ và người khác phải thực hiện các nghĩa vụ thay họ (cha, mẹ, người giám hộ). Mặt khác, theo lí luận của quan điểm này và với logic thông thường thì ngay cả các quyền cũng không bình đẳng. Ví dụ: Người không có năng lực hành vi không có cả quyền tạo lập nghĩa vụ thông qua hợp đồng, không có quyền làm đại diện...
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá nhân nhưng Nhà nước cũng không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp luật của chính họ và của cá nhân khác. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác. Điều 16 BLDS quy định: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định". Như vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Có hai dạng bị hạn chế sau:
+ Văn bản pháp luật chung quy định một loại người nào đó không được phép thực hiện các giao dịch dân sự cụ thể. Ví dụ: Người nước ngoài không có quyền sở hữu về nhà ở nên không được phép mua bán nhà ở tại Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 125 Luật nhà ở.
+ Quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Toà án ra quyết định cấm cư trú đối với một người nào đó đã hạn chế năng lực pháp luật cụ thể của người đó trong khoảng thời gian xác định.
Tuy vậy, về bản chất, đây không phải là tước bỏ năng lực pháp luật dân sự mà chỉ là tạm đình chỉ khả năng này - khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Việc hạn chế này chỉ đối với một số quyền cụ thể mà không phải là năng lực pháp luật dân sự nói chung. Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự không đồng nghĩa với việc tước bỏ một quyền dân sự cụ thể (kê biên tài sản, tịch thu tài sản...).
- Tính bảo đảm của năng lực pháp luật dân sự
Khả năng có quyền và nghĩa vụ vẫn chỉ tồn tại là những quyền khách quan mà pháp luật quy định cho các chủ thể. Để biến những "khả năng" này thành các quyền dân sự cụ thể cần phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Những điều kiện khách quan là những điều kiện kinh tế, xã hội, những chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Thiếu những điều kiện kinh tế, pháp lí này, các quyền đó vẫn chỉ tồn tại dưới dạng "khả năng" mà không thể thành những quyền dân sự cụ thể được. Nhà nước ta đang thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa tạo những điều kiện thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu của nhân dân. Đây là những cơ sở chính trị, kinh tế, pháp lí quan trọng nhằm phát huy hiệu quả của nền kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những mặt trái của nó. Nhà nước tạo mọi điều kiện để bảo đảm năng lực pháp luật dân sự của công dân được thực hiện, biến những "khả năng" đó trở thành thực tế. Tạo ra hành lang pháp lí thông thoáng, mềm dẻo là tạo điều kiện cho khả năng biến năng lực pháp luật của cá nhân thành các quyền năng dân sự cụ thể.
3. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Pháp luật ghi nhận khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự. Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cá nhân gọi là nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những quyền dân sự của cá nhân được ghi nhận ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng quan trọng nhất là Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hóa trong BLDS năm 2005.
Điều 15 BLDS quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân một cách vắn tắt, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi nhận trong tất cả các phần của BLDS. Có thể chia quyền dân sự của cá nhân thành ba nhóm chính:
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định tại mục 2 - Chương III - Phần thứ nhất của BLDS và quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định ở Phần thứ sáu của BLDS. Đặc điểm quan trọng nhất trong các quy định về quyền nhân thân trong BLDS là xác nhận lại các quyền nhân thân đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đó (quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín...) và các quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi nhận (các quyền đối với họ tên, thay đổi họ tên - Điều 26, 27; quyền xác định dân tộc - Điều 28; quyền khai sinh, khai tử - Điều 29, 30; quyền với hình ảnh - Điều 31; quyền bảo đảm về an toàn về tính mạng, sức khỏe - Điều 32; quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể, nhận bộ phận cơ thể - Điều 33,34,35; quyền xác định lại giới tính - Điều 36; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín - Điều 37; quyền bí mật đời tư - Điều 38…). Ngoài ra, bảo vệ, tôn trọng quyền nhân thân còn được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng của BLDS (Điều 9 BLDS).
- Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa kế. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, BLDS quy định tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị, bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế quyền sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở hữu tư nhân.
Công dân có quyền hưởng di sản thừa kế, để lại di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
- Quyền tham gia vào quan hệ dân sự và có các quyền nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ đó.
Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự (hành vi pháp lí đơn phương hoặc hợp đồng) là biện pháp quan trọng và thông dụng nhất làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này được thể hiện trong các nguyên tắc của luật dân sự "tự do, tự nguyện cam kết" (Điều 4 BLDS) và được thể hiện cụ thể, chi tiết trong Phần thứ ba của BLDS. Ngoài ra, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác (bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc không có ủy quyền...).
4. Bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
"Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết" (khoản 3 - Điều 14 BLDS). Với quy định này, pháp luật thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản...
Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là: "Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết" vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vậy, thai nhi đã được bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi sinh ra.
5. Tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết
Đây là một chế định đặc biệt của luật dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như những chủ thể có liên quan khác. "Năng lực pháp luật dân sự của công dân chấm dứt khi người đó chết", cái chết của cá nhân là sự kiện pháp lí làm chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân nhưng cái chết đó phải được xác định một cách đích xác và theo quy định của pháp luật thì phải "khai tử" (Điều 30 BLDS).
Trong thực tế có những trường hợp, vì các lí do khác nhau (những rủi ro, chiến tranh, tai nạn và kể cả nguyên nhân do chính cá nhân đó tạo ra) đã không thể xác định được cá nhân đó còn sống hay đã chết. Trong những trường hợp như vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, của những người có quyền, lợi ích liên quan, pháp luật quy định những điều kiện, trình tự để tạm dừng hoặc chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân dưới hai hình thức: Tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết.
a. Tuyên bố mất tích
* Điều kiện:
Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự như­ng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án có thể tuyên bố người đó mất tích (Điều 78 BLDS).
Căn cứ vào quy định này, toà án có thể tuyên bố một người mất tích khi có các điều kiện sau:
- Biệt tích đã hai năm liền trở lên, không có một tin tức nào về người đó còn sống hay đã chết. Pháp luật không quy định rõ phạm vi không gian cũng như chủ thể về việc nhận biết các tin tức này nhưng căn cứ vào Điều 74 BLDS có thể xác định:
+ Về không gian, tại nơi cư trú cuối cùng của người đó, nơi cư trú của cá nhân được xác định tại mục 3 - Chương III - Phần thứ nhất của BLDS;
+ Về chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố một người mất tích đó là người có quyền, lợi ích liên quan, đây là những người có mối liên hệ nào đó (theo quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ hành chính, quan hệ lao động, quan hệ dân sự hoặc các quan hệ khác) mà quyền lợi của họ bị ảnh hưởng do sự vắng mặt của chủ thể. Theo nguyên tắc, người nào có quyền về tài sản liên quan đến người biệt tích sẽ bị thiệt hại nếu không tuyên bố người đó mất tích thì họ có quyền yêu cầu toà án tuyên bố người đó mất tích.
Những người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu toà án thông báo, tìm kiếm người vắng mặt. Toà án có thể tự mình thông báo hoặc yêu cầu những người này thông báo. Cách thức, biện pháp thông báo được quy định trong luật tố tụng dân sự, như phạm vi thông báo, phương tiện thông báo... Sau khi đã thông báo với thời hạn luật định mà vẫn không có tin tức gì về người đó còn sống hay đã chết.
 + Thời hạn hai năm được tính theo quy định của đoạn 2 khoản 1 Điều 78 BLDS.
- Từ ngày biết được tin tức cuối cùng của người đó thì người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án tuyên bố người đó mất tích. Theo nguyên tắc chung của luật tố tụng dân sự, toà án chỉ xem xét và giải quyết khi đương sự có yêu cầu và trong phạm vi yêu cầu đó. Bởi vậy, khi xem xét yêu cầu của đương sự, toà án phải kiểm tra các điều kiện cần thiết và nếu thấy đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định, toà án ra quyết định tuyên bố người biệt tích đó là mất tích.
* Hậu quả của việc tuyên bố mất tích: Việc tuyên bố một người mất tích kéo theo những hậu quả pháp lí nhất định: Tạm thời đình chỉ tư cách chủ thể của người bị tuyến bố là mất tích, tuy nhiên quyết định này không làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ. Tài sản của người bị tuyên bố mất tích được quản lí theo quyết định của toà án được quy định tại các điều 75, 76, 77, 79 BLDS về quản lí tài sản của người vắng mặt, của người bị tuyên bố là mất tích; quyền và nghĩa vụ của người quản lí tài sản của người vắng mặt, người bị tuyên bố là mất tích.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là mất tích xin li hôn thì toà án giải quyết cho li hôn.
* Hủy bỏ việc quyết định tuyên bố mất tích: Việc tuyên bố một người là mất tích chỉ tạm dừng năng lực chủ thể của người đó. Việc tạm dừng này có thể thay đổi theo một trong hai hướng: Phục hồi năng lực chủ thể hoặc chấm dứt tư cách chủ thể. Việc chấm dứt tư cách chủ thể được diễn ra khi có tin tức rằng họ đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết. Phục hồi tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là mất tích xảy ra trong hai trường hợp: Người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức chứng tỏ người đó còn sống. Khi có một trong hai trường hợp đó thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó mất tích. Người bị tuyên bố mất tích trở về có quyền yêu cầu người quản lí tài sản trả lại tài sản cho mình. Tuy nhiên, quyết định li hôn của vợ hoặc chồng người bị tuyên bố là mất tích vẫn có hiệu lực pháp luật.                                                                                     
b. Tuyên bố là đã chết
* Theo quy định tại Điều 81 BLDS, trong bốn trường hợp sau, toà án có thể tuyên bố một người là đã chết.
- Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức là người đó còn sống. Trong trường hợp này việc tuyên bố một người bị mất tích tạm dừng năng lực chủ thể của họ được diễn ra theo hướng chấm dứt tư cách chủ thể của người đó. Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của toà án có hiệu lực pháp luật mà không cần đòi hỏi thêm một thủ tục thông báo nào (của toà án cũng như người có quyền, lợi ích liên quan) toà án có thể tuyên bố người đó là đã chết.
- Biệt tích đã năm năm liền trở lên và không có tin tức là còn sống hay đã chết. Khi một người biệt tích thì phải áp dụng các quy định về thông báo, tìm kiếm giống như trường hợp tìm kiếm người mất tích. Sau hai năm có thể tuyên bố mất tích, sau năm năm có thể tuyên bố là đã chết. Nếu có tuyên bố mất tích thì phải áp dụng quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 81 BLDS, nếu không tuyên bố mất tích thì biệt tích năm năm liền trở lên toà án có thể tuyên bố một người là đã chết. Thời hạn năm năm được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 BLDS.
- Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Điểm b, khoản 1, Điều 81 BLDS không quy định phải thông báo tìm kiếm trong trường hợp biệt tích trong chiến tranh. Ngày chiến tranh kết thúc có thể quy định khác nhau: Ngày chiến thắng, ngày tuyên bố chấm dứt chiến tranh, ngày kí hiệp định đình chiến, hòa bình, ngày tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh... tùy theo từng hoàn cảnh và các cuộc chiến tranh cụ thể mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, hoặc được xác định theo thông lệ quốc tế.
- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm kể từ ngày chấm dứt các sự kiện đó mà không có tin tức là còn sống. Người bị tuyên bố là đã chết phải ở trong số người bị tai nạn (cư dân trong các vùng bị động đất, núi lửa, sóng thần; hành khách trong các tai nạn giao thông đường thủy, đường bộ, đường hàng không; người trong hầm lò bị sập, trên tàu bị đắm, bị lốc cuốn... mà không xác định được hoặc do không tìm thấy thi thể nạn nhân).
Tuỳ từng trường hợp, toà án xác định ngày chết của người đó trong bản án hoặc quyết định của toà án. Nếu không xác định ngày người đã chết trong bản án hoặc quyết định của toà án thì ngày chết là ngày bản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật. Thông thường, đối với người biệt tích trong các tai nạn, thảm họa, thiên tai thì ngày chết là ngày xảy ra thảm họa, thiên tai đó.
II. NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là thuộc tính được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.
"Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự" - Điều 17 BLDS. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực tự chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
2. Mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì lại xác định năng lực hành vi của cá nhân không giống nhau. Những cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của chính họ. Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên khó có tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ năng lực hành vi của cá nhân.
a. Năng lực hành vi đầy đủ
Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Những người từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ chỉ bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì nữ từ 18 tuổi (17 tuổi 1 ngày)  trở lên có quyền kết hôn nhưng theo quy định này thì nữ đủ tuổi kết hôn vẫn có thể chưa có đầy đủ năng lực hành vi.
b. Năng lực hành vi một phần
Người có năng lực hành vi một phần (không đầy đủ) là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.
"Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác ".
"Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa vụ được xác lập, thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác" (Điều 20 BLDS).
Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch "phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày" và "phù hợp với lứa tuổi" nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện (mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui chơi giải trí...). Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu và toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện không yêu cầu toà án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.
Những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định về sự đồng ý của người đại diện thì áp dụng tương tự như trường hợp vị thành niên nói chung (như di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai...).
c. Không có năng lực hành vi
Người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch của những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.
d. Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
Khái niệm "mất" thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và đầy đủ khi cá nhân đến tuổi thành niên. Thông thường, năng lực hành vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của cá nhân đó (chết hoặc toà án tuyên bố là đã chết). Tuy nhiên, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định. Nếu cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS). Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này do người đại diện của họ xác lập, thực hiện. Trong trường hợp vì những nguyên nhân mà do đó, họ bị tuyên bố là mất năng lực hành vi nhưng nay không còn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Tuy nhiên, giải quyết việc này theo chính yêu cầu của người đó sẽ bị vướng mắc về tố tụng. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể tự khởi kiện hoặc yêu cầu toà án mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự, vì vậy, BLTTDS cần giải quyết vướng mắc này.
Năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 25 BLDS. Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc dù về hình thức có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình.
 Nghiện ma túy và các chất kích thích khác phải là nguyên nhân dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và việc yêu cầu toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi không chỉ thuộc những người có quyền, lợi ích liên quan mà quan trọng hơn là các cơ quan hoặc tổ chức hữu quan cũng có quyền yêu cầu toà án , điều này tạo điều kiện tốt hơn để quy định này được thực thi về mặt thực tế mà không chỉ về pháp lí.
Căn cứ vào tình trạng thực tế và theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, toà án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định, tư cách chủ thể của những người này như những người có năng lực hành vi dân sự một phần.
III. GIÁM HỘ
1. Khái niệm
Giám hộ là chế định mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật. Các quy định của giám hộ trước tiên được quy định như là một chế định của Luật hôn nhân và gia đình (Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình - Chương IX Luật hôn nhân và gia đình 2000) liên quan đến việc "chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên" (Điều 47 Luật hôn nhân và gia đình) mà vì nhiều nguyên nhân khách quan không có sự chăm sóc của cha, mẹ. Điều này được xác định lại ở điểm a khoản 2 Điều 59 BLDS. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ; cha, mẹ mất năng lực hành vi hay bị hạn chế năng lực hành vi, bị hạn chế quyền của cha, mẹ; cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc. Ngoài ra, chế định giám hộ điều chỉnh các quan hệ với mục đích nhằm khắc phục tình trạng không tương đồng giữa sự bình đẳng về năng lực pháp luật với không bình đẳng về năng lực hành vi dân sự của những người có năng lực hành vi một phần, những người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi. Những quy định của chế định này xác định việc quản lí tài sản, thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người được giám hộ. Ngoài ra, chế định giám hộ còn có những quy định mang tính hành chính như các quan hệ về cử người giám hộ, giám sát việc giám hộ...
Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ (Điều 59 BLDS). Như vậy, giám hộ là chế định nhằm khắc phục tình trạng của người có năng lực pháp luật dân sự nhưng không thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện được quyền, nghĩa vụ của họ vì họ là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi.
2. Người được giám hộ
Theo quy định tại Điều 59 BLDS năm 2005 thì người được giám hộ bao gồm:
- Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;
- Người mất năng lực hành vi dân sự; người chưa đủ mười lăm tuổi không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó.
Theo quy định này thì những người giám hộ có thể phân chia thành các nhóm sau:
- Những người bắt buộc phải có người giám hộ bao gồm: người mất năng lực hành vi dân sự; người dưới 15 tuổi không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị toà án hạn chế quyền của cha, mẹ.
- Người được giám hộ theo yêu cầu của cha, mẹ khi cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên.
- Những người từ 15 đến dưới 18 tuổi không bắt buộc phải có người giám hộ nếu họ phát triển bình thường về thể chất.
3. Người giám hộ
Trong chế định giám hộ không đề cập tư cách giám hộ của cha, mẹ với con chưa thành niên nhưng có thể suy đoán mặc nhiên vai trò của cha, mẹ đối với các con với tư cách là người đại điện đương nhiên cho con chưa thành niên. Các quy định về giám hộ đối với người chưa thành niên chỉ được áp dụng khi không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều bị mất năng lực hành vi, bị hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc không có điều kiện để chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó.
Theo quy định của pháp luật, hai hình thức giám hộ là giám hộ đương nhiên và giám hộ được cử. Giám hộ đương nhiên là hình thức giám hộ do pháp luật quy định, người giám hộ đương nhiên chỉ có thể là cá nhân. Quan hệ giám hộ dạng này được xác định bằng các quy định về người giám hộ, người được giám hộ, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ và tài sản của họ. Giám hộ được cử là hình thức cử người giám hộ theo trình tự do pháp luật quy định, cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có thể trở thành người giám hộ được cử. Một người có thể giám hộ cho nhiều người nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà theo quy định tại khoản 2 Điều 62 hoặc khoản 3 Điều 63 BLDS.
Người giám hộ có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật quy định hoặc được cử làm người giám hộ. Pháp luật không quy định điều kiện của cơ quan, tổ chức khi làm giám hộ phải là cơ quan tổ chức nào nhưng có thể suy đoán bất cứ cơ quan, tổ chức hợp pháp nào cũng đều có thể là người giám hộ.
Cá nhân là người giám hộ phải có các điều kiện được quy định ở Điều 61 BLDS. Các điều kiện đó là: người có năng lực hành vi đầy đủ; có tư cách đạo đức tốt; không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; có điều kiện cần thiết bảo đảm việc giám hộ.
Tuy điều luật này không quy định rõ điều kiện cần thiết này là gì nhưng có thể hiểu đó là điều kiện kinh tế và điều kiện thực tế khác (sinh sống cùng nơi cư trú hoặc cho người được giám hộ cùng cư trú, sinh sống với mình hoặc có thể thường xuyên giám sát, quản lí được người được giám hộ).
4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
Giám hộ là chế định nhằm bảo vệ quyền lợi của người không có năng lực hành vi, chưa đầy đủ năng lực hành vi. Bởi vậy, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ được quy định cũng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ. Nghĩa vụ của người giám hộ được quy định tại các Điều 65, 66, 67 BLDS, theo quy định tại những điều luật này, người giám hộ có các quyền và nghĩa vụ sau:
* Nghĩa vụ của người giám hộ: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Việc bảo vệ này được tiến hành thay cho người được giám hộ trong việc quản lí tài sản, tự mình hoặc giám sát người được giám hộ trong việc sử dụng và định đoạt tài sản vì lợi ích người được giám hộ sao cho hiệu quả nhất. Thực hiện các hành vi trên thực tế cũng như pháp lí nhằm bảo vệ các quyền nhân thân, quyền tài sản của người được giám hộ. Yêu cầu người khác trả lại tài sản, thực hiện các nghĩa vụ cho người được giám hộ.
- Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ là người dưới 15 tuổi; chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự.
- Quản lí tài sản của người được giám hộ: Người giám hộ có trách nhiệm quản lí tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; có trách nhiệm bảo quản, gìn giữ tài sản, không làm hư hỏng, mất mát tài sản của người được giám hộ; không được cho, tặng tài sản của người được giám hộ, chỉ được sử dụng, định đoạt tài sản vì lợi ích của người được giám hộ; đối với những giao dịch có giá trị lớn thì phải được sự đồng ý của của người giám sát việc giám hộ.
Nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của người giám hộ, pháp luật quy định những giao dịch dân sự của người giám hộ với người được giám hộ liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu. Bởi người giám hộ là người đại diện cho người được giám hộ cho nên những giao dịch này có sự "hỗn nhập" tư cách chủ thể trong một quan hệ. Cùng một cá nhân nhưng đứng về hai phía trong cùng một giao dịch dễ dàng dẫn đến sự lạm quyền của người giám hộ.
- Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự: Đại diện cho người được giám hộ không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của người giám hộ. Trừ những giao dịch mà người từ đủ 6 tuổi đến 18 tuổi có thể tự mình thực hiện theo quy định tại Điều 20 BLDS. Người giám hộ là đại diện cho người được giám hộ trong các quan hệ pháp luật nội dung cũng như tố tụng.
Tư cách đại diện của người giám hộ được thực hiện dưới hai hình thức sau:
- Đối với người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi một phần, người giám hộ với tư cách là người đại diện kiểm soát việc thực hiện các giao dịch do người được giám hộ thực hiện dưới hình thức "đồng ý" - đồng ý việc thực hiện giao dịch cũng như nội dung của giao dịch đó. Thời điểm đồng ý không có ý nghĩa quyết định. Nếu người được giám hộ đã thực hiện giao dịch không có sự đồng ý của người được giám hộ thì với tư cách là người đại diện, họ có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại Điều 130, 133 BLDS. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác.
- Đối với người chưa có năng lực hành vi, mất năng lực hành vi thì với tư cách là người đại diện, người giám hộ tự mình thực hiện các giao dịch vì lợi ích của người được giám hộ.
Người giám hộ cho người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục; bảo đảm điều trị, chữa bệnh cho người được giám hộ. Việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho người được giám hộ được thực hiện theo khả năng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của người giám hộ.
* Quyền của người giám hộ: Người giám hộ có các quyền được quy định tại Điều 67 BLDS, ngoài ra, có thể có các quyền khác được quy định trong văn bản cử giám hộ (Điều 64 BLDS). Các quyền của người giám hộ được quy định nhằm thực hiện các mục đích của việc giám hộ là chăm sóc, chữa bệnh và bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ. Vì vậy, người giám hộ có quyền sử dụng tài sản, định đoạt tài sản của người được giám hộ cho những hoạt động cần thiết thường ngày của người được giám hộ; được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lí tài sản; dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại do các hành vi của người được giám hộ gây ra. Ngoài ra, họ còn thực hiện các hành vi pháp lí thay mặt người được giám hộ trong việc tạo lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người được giám hộ.
* Người giám hộ có thể bị thay đổi nếu người giám hộ không còn đủ các điều kiện để làm người giám hộ; người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị toà án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động; người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ; người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ. Trong trường hợp thay đổi người giám hộ đương nhiên thì những người được pháp luật quy định là người giám hộ đương nhiên khác tuần tự thay thế; nếu không có người giám hộ đương nhiên thì việc cử người giám hộ được thực hiện theo quy định như giám hộ được cử.
IV. NƠI CƯ TRÚ CỦA CÁ NHÂN
Quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú trên lãnh thổ Việt Nam là một quyền quan trọng của cá nhân được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận.
Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống; nếu không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Nơi cư trú của người chưa thành niên, người được giám hộ là nơi cư trú của cha, mẹ, của người được giám hộ. Nếu cha mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của con chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Tuy nhiên, người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác nếu được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Vợ chồng có thể có nơi cứ trú khác nhau nếu có thoả thuận (Điều 53, 54, 55 BLDS).
Một số người do hoàn cảnh đặc biệt về nghề nghiệp có thể không có nơi ở nhất định, vì vậy Điều 56,57 BLDS xác định nơi cư trú của những người này. Nơi cư trú của quân nhân là nơi đơn vị đó đóng quân; đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp nơi cư trú là nơi đóng quân nếu không xác định được nơi thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền, phương tiện hành nghề lưu động khác là nơi đăng kí tàu, thuyền, phương tiện đó, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của BLDS.
Nơi cư trú được xác định theo đơn vị hành chính (xã, phường; quận, huyện; tỉnh). Việc xác định nơi cư trú của cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện và bảo vệ quyền của cá nhân, bảo đảm sự ổn định các quan hệ dân sự và sự quản lí về mặt nhà nước đối với cá nhân.
Nơi cư trú là nơi thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, nơi mở thừa kế khi công dân chết, nơi xác định cá nhân là đã chết hoặc mất tích, nơi tống đạt các giấy tờ, nơi toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện dân sự mà cá nhân là bị đơn (thẩm quyền quản hạt của toà án).
Nơi cư trú của công dân không đồng nghĩa với nơi làm việc của cá nhân. Nơi làm việc của cá nhân là nơi thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng lao động nhưng có thể nơi cư trú trùng với nơi làm việc.
Nơi cư trú của cá nhân thông thường là nơi ở của cá nhân đó nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt nơi cư trú có thể khác nơi ở (Điều 56, Điều 57 BLDS).
 C. PHÁP NHÂN - CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
I. KHÁI NIỆM PHÁP NHÂN
1. Khái niệm
Ngoài cá nhân tham gia vào các quan hệ dân sự còn có các cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác. Để các tổ chức tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể riêng biệt trong các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng các tổ chức này phải có các điều kiện do pháp luật quy định. Pháp luật dân sự đưa ra khái niệm pháp nhân nhằm phân biệt với thể nhân (tự nhiên nhân) là những cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật.
Từ thời La Mã cổ đại những phường hội, nhà thờ, xưởng thủ công... đã hình thành và ngày càng mở rộng. Ban đầu, những "tổ chức" này không có tài sản riêng của mình mà tài sản do các thành viên góp lại như một hình thức sở hữu chung theo phần. Trong trường hợp "tổ chức" bị tan rã (do nhiều nguyên nhân khác nhau) tài sản của tổ chức đó được chia trả lại cho các thành viên theo phần mà họ đóng góp vào. Những tổ chức như vậy không thể tham gia như một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật. Trong khi đó, người ta nhận thấy có những trường hợp tài sản của tổ chức không của riêng ai như: Nhà hát, nhà thờ, một con tàu... mà của tổ chức đó nói chung. Những tài sản này không của riêng từng người, từng nhóm người mà là của một tổ chức tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong các tổ chức đó. Những giao dịch của tổ chức thông qua người đại diện nhưng dưới danh nghĩa của tổ chức chứ không phải của cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm pháp nhân trong thời cổ đại chưa hình thành.
Trong chế độ phong kiến việc phân chia lao động tiếp tục phát triển và hình thành ngày càng nhiều những tổ chức như vậy. Đã bắt đầu xuất hiện những công ti khai thác thuộc địa trên lãnh thổ của các nước thuộc châu Á, Phi, Mĩ - La tinh.
Sản xuất hàng hóa chế ngự trong thời kì tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, vấn đề củng cố địa vị các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lí để các tổ chức này tham gia vào các quan hệ dân sự và thương mại là nhu cầu cấp thiết với các loại hình tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khái niệm pháp nhân được hình thành và phát triển ở thời kì này. Tuy vậy, không có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật của một nước nào, mặc dù ngày nay pháp luật công nhận sự tồn tại của pháp nhân là chủ thể của luật dân sự, luật thương mại. Pháp luật ở các nước chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu của pháp nhân. Những dấu hiệu của một tổ chức có tư cách pháp nhân được xác định như sau:
- Sự tồn tại độc lập của pháp nhân mà không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Vì vậy, pháp nhân được được coi là "cá thể riêng biệt", có ý chí riêng, có "đời sống" riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống của thành viên pháp nhân đó.
- Có tài sản riêng, độc lập với tài sản của các thành viên của nó;
- Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lí nhân danh mình;
- Có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước toà án;
- Trách nhiệm độc lập về tài sản.
Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên. sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu khi mà quy luật giá trị tiền - hàng vẫn tồn tại. Việc các tổ chức (đặc biệt các tổ chức kinh tế của Nhà nước) tham gia vào giao lưu dân sự với tư cách chủ thể của các quan hệ pháp luật rất cần thiết cho quá trình sản xuất và trao đổi. Hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường cho dù có sự quản lí của Nhà nước vẫn cần thiết phải có sự tồn tại những tổ chức sản xuất kinh doanh là những chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Khái niệm pháp nhân trong các văn bản pháp luật trước đây của Nhà nước ta được đề cập ở dạng mô tả các dấu hiệu của pháp nhân như Thông tư số 525 ngày 26/3/1975 của Trọng tài kinh tế, Nghị định số 17 ngày 16/01/1990 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 01/7/1991. Các dấu hiệu (điều kiện) được quy định ở Thông tư số 525 và Nghị định số 17 đặc trưng cho các pháp nhân là các tổ chức kinh tế trong điều kiện kế hoạch hóa nền sản xuất, Pháp lệnh hợp đồng dân sự mô tả các dấu hiệu của pháp nhân có tính chất chung và bao quát các pháp nhân ở mọi dạng, thể loại. Điều 84 BLDS mô tả các dấu hiệu (điều kiện) của một tổ chức có tư cách pháp nhân là:
- Được thành lập một cách hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Qua các văn bản pháp luật đã ban hành và tính chất chủ thể trong các quan hệ dân sự, kinh tế có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau:
Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Các điều kiện của pháp nhân
Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư cách là chủ thể của quan hệ dân sự. Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 84 BLDS.
a. Được thành lập một cách hợp pháp
Một tổ chức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc công nhận. Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ chức tồn tại trong xã hội. Việc công nhận sự tồn tại một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức đó có phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị hay không. Một khi sự tồn tại của một tổ chức (không chỉ là tổ chức chính trị) có nguy cơ đến tồn tại của nền tảng xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của giai cấp thống trị thì Nhà nước không cho phép nó tồn tại. Bởi vậy, chỉ những tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận sự tồn tại mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Trong thực tiễn mỗi pháp nhân được thành lập theo một trình tự riêng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của pháp nhân đó (quyết định thành lập, cho phép, công nhận).
b. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
Trước tiên, tổ chức là một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó (doanh nghiệp, công ti, bệnh viện, trường học, hợp tác xã...) phù hợp với chức năng và lĩnh vực hoạt động, bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất (một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành lập. Việc chọn lựa hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ chức. Ngoài ra có thể còn do tính chất, truyền thống về loại hình tổ chức và cả loại tên gọi của các tổ chức đó. Thống nhất về tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu, trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức đơn lẻ.
Pháp nhân phải là một tổ chức độc lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo nghĩa rộng không tồn tại trên thực tế mà bất kì một tổ chức nào cũng bị chi phối theo dạng này hay dạng khác của cá nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và của Nhà nước. Sự độc lập của tổ chức được coi là pháp nhân chỉ giới hạn trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động với các chủ thể khác. Trong các lĩnh vực này tổ chức không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định các vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó trong phạm vi điều lệ, quyết định thành lập và các quy định của pháp luật đối với tổ chức đó. Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí của mình, chỉ với sự độc lập mà pháp luật thừa nhận thì một tổ chức mới có thể trở thành một chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Sự tồn tại độc lập của tổ chức còn thể hiện ở chỗ nó không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân (kể cả cơ quan pháp nhân). Có rất nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban, khoa... trong các trường học, các tổ chức là một bộ phận của pháp nhân.
c. Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó
Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình - tài sản độc lập. Tài sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân (như đối với các công ti, các hợp tác xã dù nguồn vốn hình thành có thể khác nhau...) mà có thể được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lí của pháp nhân đó. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân - thành viên của pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác. Tài sản độc lập của pháp nhân là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân thể hiện dưới dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành trên những cơ sở khác nhau dưới dạng được Nhà nước giao để thực hiện chức năng (các pháp nhân là lực lượng vũ trang) được giao theo pháp luật về doanh nghiệp nhà nước; được chuyển giao quyền sở hữu cho các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội; từ nguồn vốn đóng góp của các thành viên; từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp... Tài sản của pháp nhân có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp hoặc các hình thức sở hữu khác nhưng các pháp nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như một chủ sở hữu trong khuôn khổ điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân ghi nhận.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân như một chủ thể độc lập, và phải chịu trách nhiệm về những hành vi được coi là "hành vi của pháp nhân". Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hoặc trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân. Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho cơ quan quản lí cấp trên của pháp nhân hoặc cho thành viên của pháp nhân. Các thành viên của pháp nhân không phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân.
Trách nhiệm của pháp nhân thuộc dạng trách nhiệm "hữu hạn" trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân. Độc lập về tài sản và chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của pháp nhân là tiền đề vật chất để một tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự như là một chủ thể độc lập.
d. Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước toà án
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Pháp nhân không "núp" dưới danh nghĩa của tổ chức khác, cũng không được phép cho người khác "núp" dưới danh nghĩa của mình để hoạt động. Khi pháp nhân không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc có gây thiệt hại cho cá nhân hoặc pháp nhân khác thì pháp nhân có thể là bị đơn trước toà án. Ngược lại, cá nhân hoặc pháp nhân khác không thực hiện nghĩa vụ, hoặc gây thiệt hại cho pháp nhân thì pháp nhân có quyền khởi kiện trước toà án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Việc phân định các điều kiện của pháp nhân thành ba hay bốn là tuỳ thuộc vào cách sắp xếp trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, pháp nhân ở bất cứ hệ thống pháp luật nào cũng phải thoả mãn các điều kiện chung nhất bao gồm:
- Tiền đề về tổ chức để biến một tập thể người thành một chủ thể độc lập và hợp pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật;
- Tiền đề vật chất để tham gia vào các quan hệ tài sản và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Tổng hợp các tiền đề tổ chức và vật chất để một tổ chức có tư cách chủ thể tham gia vào các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định.
- Các điều kiện của pháp nhân nêu trên là một thể thống nhất không tách rời nhau, hợp thành tư cách chủ thể của pháp nhân.
3. Các loại pháp nhân
Các điều kiện của pháp nhân là các yếu tố bắt buộc để một tổ chức có tư cách pháp nhân. Đó là những điều kiện cần và đủ để một tổ chức có tư cách chủ thể. Một pháp nhân phải có các điều kiện nêu trên và ngược lại một tổ chức có đủ các điều kiện nêu trên được coi là một pháp nhân. Tuy nhiên, các pháp nhân có những nhiệm vụ, mục đích, cũng như hình thức sở hữu khác nhau cho nên, có thể phân loại pháp nhân theo những đặc tính riêng biệt của chúng.
a. Các pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang
Là những pháp nhân được Nhà nước giao tài sản để thực hiện các chức năng quản lí nhà nước, các hoạt động khác trong lĩnh vực quản lí điều hành xã hội vì lợi ích công cộng không nhằm mục đích kinh doanh (cơ quan hành chính các cấp; trường học, bệnh viện, các cơ quan an ninh, quốc phòng...). Các pháp nhân này hoạt động bằng nguồn kinh phí của Nhà nước cấp và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi kinh phí đó. Trong trường hợp cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thực hiện các hoạt động có thu theo quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm dân sự liên quan đến hoạt động có thu bằng tài sản có được từ hoạt động này
b. Các pháp nhân là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp
Các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, chính trị-xã hội- nghề nghiệp được thành lập để hoạt động phục vụ lợi ích chung của xã hội, được quy định bởi điều lệ của các tổ chức này. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự, các tổ chức này tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, trừ trường hợp pháp luật quy định các tài sản không được sử dụng để chịu trách nhiệm dân sự như trụ sở của các cơ quan Đảng, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh...
c. Các pháp nhân là các tổ chức kinh tế
Các pháp nhân dạng này tồn tại dưới các tên gọi khác nhau (doanh nghiệp nhà nước, công ti, các hợp tác xã...) với mục đích hoạt động kinh doanh, được thành lập theo các trình tự thủ tục khác nhau. Tài sản của các tổ chức này thuộc các hình thức sở hữu khác nhau nhưng là tài sản riêng của các tổ chức đó và phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng đó.
d. Các pháp nhân là tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện
Mỗi loại tổ chức có chức năng và nhiệm vụ riêng phù hợp với mục đích và nhiệm vụ được quy định trong điều lệ của các tổ chức đó. Tài sản của các pháp nhân dạng này được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên và các nguồn khác phù hợp với pháp luật và điều lệ. Các tổ chức này phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Trong trường hợp tổ chức chấm dứt hoạt động thì tài sản không được phân chia cho các hội viên mà phải được giải quyết theo quy định của pháp luật.
II. ĐỊA VỊ PHÁP LÍ VÀ CÁC YẾU TỐ LÍ LỊCH CỦA PHÁP NHÂN
1. Năng lực chủ thể của pháp nhân
Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng kí hoạt động thì năng lực chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng kí.
Mỗi một pháp nhân được thành lập đều có mục đích và nhiệm vụ nhất định (sản xuất kinh doanh hay một nhiệm vụ xã hội khác). Bởi vậy, năng lực chủ thể của pháp nhân phải phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân đó. Mục đích của pháp nhân được xác định bởi quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan có thẩm quyền đã thành lập pháp nhân đó chuẩn y. Việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn đến thay đổi năng lực chủ thể của pháp nhân. Năng lực chủ thể của pháp nhân là chuyên biệt, phù hợp với mục đích và lĩnh vực hoạt động của nó. Bởi vậy, các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.
2. Hoạt động của pháp nhân
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật, pháp nhân phải thông qua hoạt động của mình (hoạt động ở đây không đề cập những hoạt động bên trong của pháp nhân như tổ chức sản xuất kinh doanh, điều hành cán bộ).. là các hoạt động bên ngoài như những chủ thể khác độc lập tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự nói riêng.
Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi những cá nhân - người đại diện của pháp nhân. Hành vi của những cá nhân này không phải tạo ra quyền và nghĩa vụ cho họ mà nhân danh pháp nhân tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân đó. Đại diện của pháp nhân được thực hiện dưới hai hình thức:
- Đại diện theo pháp luật (đại diện đương nhiên): Người đại diện theo luật của pháp nhân được xác định tại khoản 4 Điều 141 BLDS là: “Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Người đại diện của pháp nhân có quyền nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì hoạt động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (kí kết các hợp đồng và thực hiện các giao dịch khác).
- Đại diện theo uỷ quyền: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác thay mình, nhân danh pháp nhân thực hiện các giao dịch; có thể uỷ quyền cho cá nhân là thành viên của pháp nhân hoặc cá nhân khác; có thể uỷ quyền cho một pháp nhân khác giao kết, thực hiện các giao dịch. Người được uỷ quyền thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền được xác lập theo văn bản uỷ quyền và chỉ được uỷ quyền lại nếu người uỷ quyền đồng ý. Văn bản uỷ quyền phải xác định rõ thẩm quyền của người được uỷ quyền, nội dung và thời hạn uỷ quyền.
Trong hoạt động của pháp nhân hiện nay, tồn tại một thực tế là uỷ quyền chuyên biệt trong cơ quan của pháp nhân. Người đứng đầu pháp phân cấp cho cấp phó của mình mảng công việc nhất định và có thể được thông báo cho các bên đối tác biết. Có thể xem đây là uỷ quyền thường xuyên cho những người này.
- Hành vi của thành viên pháp nhân: Hoạt động của pháp nhân còn thông qua hành vi của thành viên pháp nhân. Thành viên của pháp nhân khi thực hiện nghĩa vụ lao động của họ đối với pháp nhân theo hợp đồng lao động được xem là hành vi của pháp nhân mà không phải là hành vi của cá nhân. Những hành vi đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân nếu hành vi này thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được giao. Họ là người trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của pháp nhân (giao hàng, nhận hàng, thực hiện các công việc...). Bởi vậy, nếu họ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc hành vi của họ gây thiệt hại cho người khác được xem là hành vi của pháp nhân; lỗi của những người này là lỗi của pháp nhân và pháp nhân phải chịu trách nhiệm do những hành vi gây thiệt hại của họ gây ra.
3. Các yếu tố lí lịch của pháp nhân
Là tổng hợp các sự kiện pháp lí để cá biệt hóa pháp nhân với các pháp nhân khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Những yếu tố về lí lịch của pháp nhân được xác định trong điều lệ của pháp nhân hay quyết định thành lập pháp nhân.
Điều lệ của pháp nhân phải có những nội dung như tên gọi, quốc tịch, trụ sở, nơi đóng trụ sở, cơ quan điều hành, vốn điều lệ, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, cơ cấu tổ chức; thể thức cử, bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm vụ và quyền hạn của các chức danh của cơ quan điều hành và các cơ quan khác. Đặc biệt điều lệ phải xác định nhiệm vụ, mục đích và phạm vi hoạt động (về lĩnh vực hoạt động, không gian hoạt động, thời gian hoạt động...) của pháp nhân. Việc thay đổi, sửa đổi, bổ sung điều lệ của pháp nhân phải được cơ quan thành lập pháp nhân chuẩn y và phải đăng kí điều lệ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quốc tịch của pháp nhân: Là mối liên hệ pháp lí giữa pháp nhân với Nhà nước, mỗi pháp nhân có quốc tịch riêng. Pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam. Việc xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa trong việc xác định pháp luật chi phối các hoạt động của pháp nhân đó.
- Cơ quan điều hành của pháp nhân: Là tổ chức đầu não của pháp nhân điều hành mọi hoạt động bên trong cũng như tham gia vào hoạt động bên ngoài của pháp nhân. Tổ chức và nhiệm vụ của cơ quan điều hành tuỳ thuộc vào loại hình pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân (cơ quan cao nhất của pháp nhân, người đại diện đương nhiên là người đứng đầu pháp nhân trừ trường hợp điều lệ của pháp nhân có quy định khác).
- Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân, nơi tập trung các hoạt động chính của pháp nhân, nơi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân, nơi tống đạt các giấy tờ giao dịch với pháp nhân, là nơi toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của pháp nhân. Địa chỉ liên lạc của pháp nhân là địa chỉ trụ sở của pháp nhân. Pháp nhân có thể chọn nơi khác làm địa chỉ liên lạc.
Ngoài trụ sở chính, pháp nhân có thể có các văn phòng đại diện của pháp nhân, các chi nhánh của pháp nhân. Văn phòng đại diện và chi nhánh của pháp nhân là những đơn vị phụ thuộc của pháp nhân.
Văn phòng đại diện của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ theo đại diện uỷ quyền cho lợi ích của pháp nhân và bảo vệ các lợi ích đó. Văn phòng đại diện không thực hiện các hành vi sản xuất kinh doanh. Chi nhánh của pháp nhân thực hiện một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ của pháp nhân tại nơi đặt chi nhánh. Ngoài ra chi nhánh có thể thực hiện các hành vi đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân. Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền của pháp nhân. Hành vi của họ được coi là hành vi của pháp nhân khi xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự.
- Tên gọi của pháp nhân - mỗi pháp nhân hoạt động với một tên gọi nhất định để cá thể hóa pháp nhân với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Tên gọi của pháp nhân thể hiện khái quát loại hình tổ chức và lĩnh vực hoạt động của pháp nhân: Công ti Bia Hà Nội (HABECO), Trường Đại học Luật Hà Nội, Tổng công ti giấy Việt Nam -Vietnam Paper Corporation (viết tắt là Vinapimex). Tên của pháp nhân có thể kèm theo tên cơ quan quản lí cấp trên của pháp nhân như Bộ Tư pháp - Trường Đại học Luật Hà Nội. Tên gọi của pháp nhân là tên chính thức khi tham gia giao dịch.
Ngoài tên gọi của pháp nhân còn có những dấu hiệu khác như nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, biểu tượng (logo) của pháp nhân trên các giấy tờ giao dịch, trong các quảng cáo cho sản phẩm cũng như dịch vụ. Tên gọi và những dấu hiệu của pháp nhân phải được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và được Nhà nước bảo hộ. Không một chủ thể nào khác được sử dụng những dấu hiệu riêng của một pháp nhân để hoạt động.
III. THÀNH LẬP VÀ ĐÌNH CHỈ PHÁP NHÂN
Pháp nhân là một thực thể xã hội, là chủ thể quan hệ pháp luật được thành lập và duy trì sự hoạt động phục vụ lợi ích của các thành viên pháp nhân phù hợp với lợi ích xã hội. Bởi vậy, việc thành lập pháp nhân phải tuân thủ các thủ tục, theo trình tự do các văn bản pháp luật quy định. Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định trình tự thành lập và giải thể các pháp nhân tuỳ theo loại hình pháp nhân với mục đích và nhiệm vụ của nó (Luật doanh nghiệp; Luật hợp tác xã).
1. Thành lập pháp nhân
Thủ tục thành lập pháp nhân do các văn bản pháp luật quy định. Trong luật dân sự người ta phân biệt việc thành lập pháp nhân theo trình tự - cách thức một pháp nhân được hình thành.
a. Trình tự mệnh lệnh
Đây là trình tự thành lập pháp nhân theo quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Thủ tướng chính phủ; bộ trưởng; chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Những người này có thể ủy quyền cho cơ quan cấp dưới của mình thành lập pháp nhân). Căn cứ vào nhu cầu thực tế, vào khả năng thực tại, các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập pháp nhân. Trong quyết định thành lập có quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của pháp nhân, lĩnh vực hoạt động của pháp nhân. Trình tự này thường được áp dụng để thành lập các cơ quan của Nhà nước.
b. Trình tự cho phép
Theo trình tự này, pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của các sáng lập viên, hội viên hoặc của các tổ chức. Họ tự đề ra mục đích, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, thành viên... Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của điều lệ, sự cần thiết tồn tại của tổ chức đó và cho phép thành lập. Trình tự này thường được áp dụng để thành lập các pháp nhân là các tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các quỹ từ thiện.ngoài ra các tổ chức này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận điều lệ.
c. Trình tự công nhận
Pháp luật đã dự liệu việc thành lập các pháp nhân bằng cách quy định về khả năng tồn tại của nó thông qua các văn bản pháp luật hoặc các điều lệ, quy chế mẫu, quy định điều kiện thành lập... Trong đó, đã xác định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các tổ chức đó, cơ quan điều hành cũng như điều kiện của thành viên... Trên cơ sở các văn bản mẫu đó, cá nhân hay tổ chức đưa ra sáng kiến thành lập. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp theo trình tự, thủ tục đã quy định, trên cơ sở đó ra quyết định thành lập. Trình tự này được áp dụng để thành lập các hợp tác xã, các công ti cổ phần, công ti trách nhiệm hữu hạn. Các doanh nghiệp phải có điều lệ riêng được xây dựng trên cơ sở điều lệ mẫu do Nhà nước ban hành. Điều lệ của doanh nghiệp được cơ quan nhà nước công nhận và doanh nghiệp phải đăng kí kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền của nhà nước.
2. Chấm dứt pháp nhân
Là chấm dứt sự tồn tại của một tổ chức với tư cách là chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật mà trước đó tổ chức đó tham gia với tư cách pháp nhân. Các căn cứ làm chấm dứt pháp nhân được quy định tại Điều 99 BLDS, tư cách chủ thể của pháp nhân bị chấm dứt từ thời điểm xoá tên trong sổ đăng kí hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp nhân chấm dứt được thực hiện dưới hai hình thức: Giải thể và cải tổ pháp nhân.
a. Giải thể pháp nhân
Các căn cứ giải thể pháp nhân được quy định tại Điều 98 BLDS. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập pháp nhân thì có thẩm quyền quyết định giải thể pháp nhân đó. Khi giải thể, pháp nhân phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của mình.
Nguyên nhân dẫn đến việc giải thể pháp nhân có thể là: Đã thực hiện xong nhiệm vụ; đạt được mục đích khi thành lập pháp nhân đó đặt ra; hoạt động của pháp nhân trái với mục đích khi thành lập gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội, vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc sự tồn tại của pháp nhân không cần thiết nữa; khi thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ đã hết...
Tuyên bố phá sản doanh nghiệp - Tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về phá sản là một hình thức "giải thể" đặc biệt đối với các pháp nhân là doanh nghiệp, nhằm giải quyết tình trạng làm ăn thua lỗ đến mức không có khả năng thanh toán nợ đến hạn (Luật phá sản doanh nghiệp) của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp bị phá sản chấm dứt sự tồn tại, như pháp nhân bị giải thể.
b. Cải tổ pháp nhân
Cải tổ pháp nhân là một hình thức chấm dứt pháp nhân thông qua việc tổ chức lại pháp nhân đó. Việc cải tổ pháp nhân có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Các pháp nhân cùng loại có thể hợp nhất thành một pháp nhân mới theo quy định của điều lệ, theo thoả thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hợp nhất pháp nhân (theo công thức A + B = C): Hai hay nhiều pháp nhân liên kết lại thành pháp nhân hoàn toàn mới, các pháp nhân ban đầu (A, B...) chấm dứt sự tồn tại. Quyền và nghĩa vụ của các pháp nhân ban đầu được chuyển giao cho pháp nhân mới (C). Việc hợp nhất pháp nhân phải được tiến hành như việc thành lập pháp nhân.
+ Một pháp nhân có thể được sáp nhập vào một pháp nhân khác cùng loại theo quy định của điều lệ, theo thoả thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sáp nhập pháp nhân thực hiện theo công thức A + B = A hoặc A + B = B. Pháp nhân được sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển cho pháp nhân sáp nhập.
+ Một pháp nhân có thể chia thành nhiều pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chia nhỏ pháp nhân (theo công thức A: 2 = B, C): Trên cơ sở pháp nhân ban đầu, hai hay nhiều pháp nhân được hình thành như những chủ thể độc lập của quan hệ dân sự. Quyền và nghĩa vụ của pháp nhân ban đầu được phân chia cho các pháp nhân mới hình thành.
+ Một pháp nhân có thể tách thành nhiều pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tách pháp nhân (theo công thức A = A + B): một pháp nhân mới hình thành bằng cách tách một phần của pháp nhân đang tồn tại và nó vẫn tồn tại và hoạt động như khi chưa được tách. Pháp nhân A có năng lực chủ thể như cũ. Pháp nhân B có năng lực chủ thể hoàn toàn mới không phụ thuộc vào pháp nhân A thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với mục đích hoạt động của các pháp nhân đó.
Cải tổ pháp nhân về bản chất là sự kế quyền tổng hợp giữa pháp nhân mới hình thành và pháp nhân ban đầu. Cải tổ khác giải thể ở chỗ giải thể chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân như là một chủ thể, các quyền và nghĩa vụ của nó chấm dứt thông qua việc thanh lí tài sản và không còn chủ thể kế tục quyền và nghĩa vụ của chúng. Cải tổ cũng chấm dứt sự hoạt động của pháp nhân nhưng quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển cho pháp nhân mới. Giải thể kèm theo sự huỷ bỏ toàn bộ cơ cấu, tổ chức của pháp nhân. Cải tổ chỉ là việc sắp xếp lại tổ chức của pháp nhân, thực chất là chuyển cơ cấu tổ chức cho pháp nhân mới hoặc giảm cơ cấu tổ chức của pháp nhân.
IV. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào một số quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể đặc biệt. Tư cách chủ thể của Nhà nước không đặt ra như tư cách chủ thể của các chủ thể khác. Nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế với tư cách là chủ thể độc lập, bình đẳng nhưng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt trong các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự, kinh tế nói riêng bởi các lẽ sau:
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp tri thức (Điều 2 Hiến pháp năm 1992). Nhà nước nắm quyền lãnh đạo thống nhất, toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là người đại diện cho toàn dân và là một tổ chức chính trị - quyền lực.
- Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân (Điều 17 Hiến pháp năm 1992; Điều 200 BLDS).
- Nhà nước tự quy định cho mình các quyền trong các quan hệ mà Nhà nước tham gia, trình tự, cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ đó.
- Nhà nước là chủ thể của tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Nhà nước trực tiếp nắm quyền định đoạt tối cao đối với các tài sản mà pháp luật quy định thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Những tài sản có ý nghĩa quyết định đến nền tảng kinh tế của toàn xã hội, đến an ninh, quốc phòng như: Đất đai, rừng núi, sông hồ, biển cả, các tài nguyên thiên nhiên khác.
Nhà nước giao quyền của mình cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền quản lí các tài sản, giao cho các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, chính trị-xã hội các tổ chức khác, cá nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản của Nhà nước; quy định về trình tự, giới hạn thực hiện các quyền đó.
Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế như: Ngân hàng, kho bạc, phát hành các kì phiếu, trái phiếu, công trái.
Nhà nước là chủ sở hữu các tài sản vô chủ, tài sản không người thừa kế, tài sản bị trưng thu, trưng mua.
D. HỘ GIA ĐÌNH, TỔ HỢP TÁC - CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Cùng với cá nhân, pháp nhân là những chủ thể của quan hệ dân sự, BLDS còn quy định hộ gia đình và tổ hợp tác cũng là những chủ thể của quan hệ dân sự. Việc xác định tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác trong giao lưu dân sự xuất phát từ những đặc thù của sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Hộ gia đình và tổ hợp tác xã đã, đang tồn tại với tư cách là các cơ sở kinh tế tự chủ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Hộ gia đình, tổ hợp tác tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách chủ thể hạn chế.
I. HỘ GIA ĐÌNH
1. Khái niệm hộ gia đình
Những hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định là các chủ thể các quan hệ dân sự đó (Điều 106 BLDS). Như vậy, không phải tất cả các hộ gia đình (chúng ta chưa có một khái niệm thống nhất về hộ gia đình) đều là chủ thể mà chỉ có những hộ gia đình có những điều kiện nhất định mới trở thành chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nhất định.
Pháp luật chỉ quy định các thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung mà không quy định về điều kiện thành viên của hộ gia đình và các mối liên quan cần thiết để tạo lập nên hộ gia đình đó. Nhưng xuất phát từ pháp luật về hôn nhân và gia đình, những quy định của BLDS và phong tục tập quán thì thành viên hộ gia đình là những người trong gia đình có các quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân. Nếu trong hộ đó có những người không có năng lực hành vi, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi thì ngay trong gia đình đó đã có người đại điện đương nhiên (giám hộ đương nhiên) cho họ trong các quan hệ dân sự. Số lượng thành viên trong hộ không có giới hạn tối đa nhưng có thể hiểu phải có ít nhất hai cá nhân trở lên, bởi nếu chỉ có một thành viên thì lại là chủ thể với tư cách cá nhân đơn thuần trong các quan hệ dân sự và các khái niệm đại diện sẽ không còn tồn tại.
Tài sản chung của hộ gia đình là tài sản thuộc sở hữu chung của các thành viên. Khối tài sản chung phải là một thể thống nhất được tạo dựng bởi các thành viên. Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ.
Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
2. Năng lực chủ thể của hộ gia đình
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự hộ gia đình phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể của hộ gia đình có những nét tương đồng với năng lực chủ thể của pháp nhân ở chỗ:
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của hộ gia đình phát sinh đồng thời với việc hình thành hộ gia đình với tư cách chủ thể.
- Năng lực chủ thể của hộ gia đình do pháp luật quy định và có tính chất hạn chế trong một số lĩnh vực - đó là "hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định" (Điều 106 BLDS).
Như vậy, hộ gia đình là chủ thể hạn chế trong các quan hệ dân sự, chỉ được tham gia vào các quan hệ dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất: Chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất ở, vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ… và tham gia một số quan hệ khác phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh chung của cả hộ. Việc hạn chế năng lực chủ thể của hộ gia đình liên quan đến tính chất các quan hệ dân sự cũng như những đặc thù gia đình nói chung và hộ gia đình nói riêng. Đó là sự cộng đồng các thành viên trong gia đình, là những trật tự gia đình truyền thống cũng như sự phân hóa các gia đình thành các hộ gia đình hay một hộ gia đình thành nhiều hộ gia đình. Việc phát sinh hay chấm dứt một hộ gia đình hoặc thay đổi vai trò chủ hộ (với tư cách là đại diện) trong hộ gia đình nhiều khi không thể xác định được bằng các quy tắc pháp lí. Vì vậy, tuy quy định hộ gia đình với tư cách là chủ thể nhưng pháp luật không quy định cách thức phát sinh, trình tự phát sinh hay chấm dứt một hộ gia đình mà phải căn cứ vào điều kiện thực tế tồn tại trong gia đình đó để xác nhận một hộ gia đình với tư cách chủ thể. Có thể tồn tại trong một ngôi nhà có nhiều hộ gia đình với tư cách chủ thể nhưng cũng có thể có hộ gia đình mà các thành viên sống ở nhiều ngôi nhà khác nhau, thậm chí thành viên của hộ gia đình có nơi cư trú khác nhau. Nhưng nếu thoả mãn điều kiện có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung thì có thể hình thành một hộ gia đình với tư cách là chủ thể tham gia vào các quan hệ do pháp luật quy định.
3. Hoạt động và trách nhiệm của hộ gia đình
a. Hoạt động
Hộ gia đình hoạt động với tư cách chủ thể trong quan hệ dân sự thông qua đại diện của hộ gia đình mà pháp luật gọi là chủ hộ. Chủ hộ là người đại diện cho hộ trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ (chuyển quyền sử dụng đất, mua bán vật tư sản phẩm...). Khi tham gia vào giao dịch dân sự, chủ hộ đại diện cho hộ gia đình không cần có sự đồng ý của các thành viên nếu mục đích của giao dịch phục vụ lợi ích chung của cả hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ gia đình trong các quan hệ dân sự, việc uỷ quyền phải tuân thủ theo các quy tắc chung về uỷ quyền. Người được uỷ quyền là thành viên của hộ gia đình phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả hộ gia đình.
b. Trách nhiệm dân sự của hộ gia đình
Cũng như các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ dân sự, hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự trong các quan hệ mà họ tham gia. Người đại diện cho hộ gia đình xác lập, thực hiện các giao dịch làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho cả hộ đồng thời cũng làm phát sinh trách nhiệm cho cả hộ với tư cách chủ thể. Trước tiên, trách nhiệm của hộ gia đình được thực hiện bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Theo quy định tại Điều 109 BLDS thì có thể suy đoán các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Như vậy, trách nhiệm tài sản của hộ gia đình là trách nhiệm vô hạn.
II. TỔ HỢP TÁC
1. Khái niệm tổ hợp tác
Theo Điều 111 BLDS , tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng hợp tác được quy định tại khoản 2 Điều 111 BLDS bao gồm: Mục đích, thời hạn hợp đồng hợp tác; họ, tên, nơi cư trú của tổ trưởng và các tổ viên; mức đóng góp tài sản, nếu có; phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các tổ viên; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ trưởng, của các tổ viên; điều kiện nhận tổ viên mới và ra khỏi tổ hợp tác; điều kiện chấm dứt tổ hợp tác và các thoả thuận khác (nếu có)
Theo quy định này, không phải bất cứ sự liên kết nào cũng có thể hình thành tổ hợp tác mà chỉ những liên kết do ít nhất ba cá nhân trở lên dựa trên cơ sở hợp đồng được kí kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng có chứng thực của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Thông qua việc chứng thực, uỷ ban nhân dân cấp cơ sở kiểm tra tính hợp pháp của mục đích hoạt động, sự tự nguyện của các thành viên và các yếu tố khác (tài sản, mức góp vốn, cách thức phân chia hoa lợi, lợi tức...). Pháp luật chỉ quy định tư cách tổ viên là người từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự mà không quy định bất cứ một sự hạn chế nào khác về tư cách tổ viên. Bởi vậy, tổ hợp tác có thể được hình thành từ các tổ viên có nơi cư trú khác nhau, mức đóng góp từ tài sản khác nhau và sự phân chia hoa lợi, lợi tức khác nhau. Trong trường hợp các thành viên tổ hợp tác có nơi cư trú khác nhau thì uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi các hoạt động chính là của tổ hợp tác diễn ra là nơi có thẩm quyền chứng thực hợp đồng hợp tác và mặc nhiên được coi là nơi đăng kí hoạt động của tổ hợp tác. Số lượng thành viên tổ hợp tác có thể thay đổi trong quá trình hoạt động của tổ hợp tác nhưng tối thiểu phải có ba cá nhân tham gia, việc thay đổi thành viên tổ hợp tác thông qua việc kết nạp tổ viên mới và ra khỏi tổ hợp tác. Tổ hợp tác có thể nhận thêm thành viên mới khi được đa số các thành viên đồng ý, nếu không có thoả thuận khác được ghi trong hợp đồng hợp tác ban đầu đã được chứng thực. Thành viên mới phải chấp thuận các điều kiện đã ghi trong hợp đồng hợp tác. Tuy nhiên, nếu tất cả các tổ viên cũ đều chấp nhận yêu cầu về thay đổi nội dung hợp đồng do tổ viên mới đưa ra thì hợp đồng hợp tác mới phải được chứng thực lại. Việc ra khỏi tổ hợp tác chỉ được thực hiện theo các điều kiện này là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng hợp tác mà các bên phải thoả thuận.
Khi ra khỏi tổ hợp tác, tổ viên có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã góp khi hình thành tổ, được chia phần trong khối tài sản chung và phải chịu trách nhiệm thanh toán các nghĩa vụ tương ứng với tài sản mà họ đã nhận. Trong trường hợp việc phân chia tài sản cho thành viên ra khỏi tổ hợp tác mà ảnh hưởng đến việc tiếp tục hoạt động bình thường của tổ thì tài sản sẽ được thanh toán bằng tiền, tổ viên ra khỏi tổ hợp tác sẽ được nhận tiền tương ứng với phần tài sản đó.
2. Năng lực chủ thể của tổ hợp tác
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác để thực hiện "những công việc nhất định". Bởi vậy, "những công việc nhất định" là phạm vi hoạt động và là giới hạn của năng lực chủ thể của tổ hợp tác. Pháp luật không quy định "những công việc nhất định" là gì cho từng tổ hợp tác riêng biệt cho nên trong hợp đồng hợp tác phải ghi rõ những công việc đó là sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ... Tuy nhiên, những "công việc" đó phải là những "công việc" hợp pháp, phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Việc chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở là xác nhận sự tồn tại của tổ hợp tác với tư cách chủ thể qua đó kiểm tra tính hợp pháp của "công việc" mà tổ hợp tác dự định thực hiện. Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở có quyền từ chối chứng thực nếu công việc mà tổ hợp tác dự định thực hiện không hợp pháp, trái với đạo đức xã hội. Trong trường hợp này không thể hình thành tổ hợp tác. Việc thay đổi công việc, thêm công việc mà tổ hợp tác dự định thực hiện cũng phải được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác và phải được xác nhận lại của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở.
Năng lực chủ thể của tổ hợp tác là năng lực chuyên biệt - chỉ được thực hiện những công việc đã được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác. Việc giao kết hợp đồng hợp tác phải tuân thủ các quy định chung về giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự, các tổ viên tổ hợp tác chính là các bên tham gia trong hợp đồng hợp tác. Họ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng đó, phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng dân sự, đồng thời phải chịu trách nhiệm dân sự nếu họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, nếu gây thiệt hại phải bồi thường cho tổ hợp tác.
Năng lực chủ thể của tổ hợp tác phát sinh đồng thời với việc thành lập và chấm dứt khi chấm dứt sự tồn tại của tổ hợp tác với tư cách là một chủ thể. Thời điểm thành lập tổ hợp tác là thời điểm uỷ ban nhân dân cơ sở chứng nhận hợp đồng hợp tác. Kể từ thời điểm này tổ hợp tác tồn tại như một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Những căn cứ làm chấm dứt tổ hợp tác được quy định tại Điều 120 BLDS (hết thời hạn hợp đồng, mục đích hợp tác đã đạt được, các tổ viên thoả thuận chấm dứt tổ hợp tác). Việc chấm dứt tổ hợp tác phải được báo cáo cho uỷ ban nhân dân cấp cơ sở nơi đã chứng nhận hợp đồng hợp tác. Khi chấm dứt, tổ hợp tác phải thanh toán các khoản nợ bằng tài sản chung của tổ, nếu không đủ phải dùng các tài sản riêng của tổ viên để thanh toán.
3. Tài sản của tổ hợp tác
Tài sản của tổ hợp tác là điều kiện vật chất để tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đã đăng kí hoạt động và chịu trách nhiệm dân sự. Tài sản của tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở các tổ viên đóng góp, cùng tạo lập và được tặng cho chung. Các tổ viên quản lí và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
Các tổ viên có quyền tham gia quyết định các vấn đề có liên quan đến hoạt động của tổ hợp tác, thực hiện việc kiểm tra hoạt động của tổ hợp tác. Được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động của tổ hợp tác theo thoả thuận. Thực hiện sự hợp tác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, giúp đỡ lẫn nhau và bảo đảm lợi ích chung của tổ hợp tác; bồi thường thiệt hại cho tổ hợp tác do lỗi của mình gây ra.
4. Hoạt động và trách nhiệm của tổ hợp tác
a. Hoạt động của tổ hợp tác
Tổ hợp tác hoạt động thông qua đại diện của tổ. Đại diện của tổ là tổ trưởng do các tổ viên bầu ra. BLDS không quy định hoạt động bên trong của tổ hợp tác như cách thức bầu đại diện, thành phần tổ viên tham dự họp và số phiếu cần thiết... Nhưng theo tinh thần chung về tổ chức, các nguyên tắc chung của BLDS thì tổ trưởng phải do phiên họp của tất cả các tổ viên và phải được các tổ viên đồng ý, tổ trưởng đầu tiên có thể ghi ngay vào hợp đồng hợp tác. Việc thay đổi tổ trưởng cũng có thể diễn ra trong quá trình hoạt động của tổ hợp tác dưới hình thức bầu lại tổ trưởng.
Tổ trưởng có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ. Việc uỷ quyền cho tổ viên phải tuân thủ các quy định chung về uỷ quyền được ghi nhận tại Chương V - Phần thứ nhất BLDS về nội dung cũng như hình thức uỷ quyền.
Người đại diện tổ hợp tác, nhân danh tổ xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của tổ, trong phạm vi những công việc đã được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 114 BLDS còn quy định thêm: "Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý" thì hành vi của người đại diện mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho cả tổ.
Quy định này có thể được hiểu theo hai nghĩa sau: Thứ nhất: Mỗi một giao dịch định đoạt tài sản mà người đại diện xác lập hay thực hiện đều phải có sự đồng ý của toàn thể hay đa số tổ viên. Việc đồng ý phải được thể hiện trước hoặc sau khi giao dịch đó đã xác lập. Thứ hai: Người đại diện của tổ được mặc nhiên suy đoán là đã được các tổ viên đồng ý khi xác lập, thực hiện các giao dịch vì mục đích hoạt động của tổ.
Xét theo ngữ pháp thì khoản 3 Điều 114 BLDS năm 2005 thể hiện cách hiểu thứ nhất. Nếu như vậy thì khó có thể tưởng tượng được việc hoạt động bình thường của tổ hợp tác trong điều kiện kinh tế thị trường, bởi việc quyết định của tổ trưởng không phải lúc nào cũng có thể được sự đồng ý của toàn thể hay đa số các tổ viên và việc đồng ý này bên đối tác khó có thể biết được. Nếu một giao dịch mang lợi ích cho tổ mà các tổ viên không chấp nhận sẽ dẫn đến giao dịch mà người đại diện xác lập, thực hiện bị coi là vô hiệu.
Theo các quy tắc chung về chủ thể, cũng như về đại diện theo pháp luật thì tổ trưởng là người đại diện cho tổ (khoản 6 Điều 141; khoản 1 Điều 144 BLDS) họ có quyền thực hiện các giao dịch mà không cần sự đồng ý của đa số các thành viên, miễn là những giao dịch đó phù hợp với công việc của tổ và vì lợi ích của tổ. Những giao dịch đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ.
Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý (nếu là tư liệu sản xuất) và đa số đồng ý (nếu là các tài sản khác). Đối với các loại giao dịch làm giảm tài sản của tổ thì người đại diện phải tuân thủ các quy định trên nhằm tránh sự lạm quyền của tổ trưởng trong việc thực hiện vai trò của mình. Pháp luật không chỉ rõ quy định "đa số" gì? Đa số thường hay đa số tuyệt đối? Nhưng theo các nguyên tắc chung thì chỉ cần đa số thường (50% + 1) và việc đồng ý phải được xác định trước khi người đại diện thực hiện việc định đoạt đó.
b. Trách nhiệm của tổ hợp tác
Với tư cách là chủ thể của quan hệ dân sự, tổ hợp tác có các quyền và nghĩa vụ dân sự đồng thời phải chịu trách nhiệm do không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ. Hành vi của người đại diện tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho tổ hợp tác thì cũng có thể tạo ra nghĩa vụ cho tổ hợp tác nếu các hành vi đó thực hiện nhân danh tổ hợp tác.
Tổ hợp tác chịu trách nhiệm bằng tài sản chung của tổ. Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên đới theo phần tương ứng với phần đã đóng góp bằng tài sản riêng của họ. Như vậy, trách nhiệm tài sản của tổ hợp tác là trách nhiệm vô hạn. Việc thực hiện nghĩa vụ của những tổ viên phải tuân thủ cách thức thực hiện nghĩa vụ liên đới được quy định tại Điều 298 BLDS. Sự liên đới có phân chia thành phần tương ứng với phần vốn mà tổ viên đã đóng góp vào tài sản chung của tổ nhưng sự phân chia này không làm mất tính liên đới của nghĩa vụ. Trong trường hợp một tổ viên không thực hiện nghĩa vụ, người có quyền có thể yêu cầu các tổ viên khác phải thực hiện. Nếu một tổ viên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, họ chỉ có quyền yêu cầu các tổ viên khác thực hiện nghĩa vụ theo phần đối với họ.
Tài sản của tổ hợp tác được hình thành từ việc đóng góp của các tổ viên (mức đóng góp, cách thức đóng góp được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác), tài sản được tặng, cho chung. Ngoài ra các tổ viên có thể thoả thuận trích một phần hoa lợi, lợi tức của tổ làm tài sản chung. Việc quản lí, sử dụng tài sản chung của tổ do các tổ viên thoả thuận trong hợp đồng hợp tác.



LIKE and Share this article: :

1 nhận xét:

 

Tổng số lượt xem trang

Blogger news

Blogroll

About