Căn cứ vào Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo
Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ
họp thứ 10;
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I
NHIỆM
VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 1. Phạm vi
điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân
sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục
khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và
trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc
dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi
chung là vụ việc dân sự) tại Toà án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho
việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và
đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân
sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
1. Bộ luật tố tụng
dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự trên toàn lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
2. Bộ luật tố tụng
dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự do cơ quan Lãnh sự của
Việt Nam
tiến hành ở nước ngoài.
3. Bộ luật tố tụng
dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
4. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại
giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì vụ
việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng
con đường ngoại giao.
NHỮNG
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều 3. Bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự
Mọi hoạt động tố tụng
dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
1. Đương sự có quyền
quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân
sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu
của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.
1. Các đương sự có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Toà án chỉ tiến
hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy
định.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ
cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang
lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không
cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu
rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.
Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ
chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và
những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều
kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Đương sự có quyền tự
bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ
luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Toà án có trách nhiệm
bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Toà án có trách nhiệm
tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Việc xét xử các vụ án
dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử,
Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Khi xét xử vụ án dân
sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành
vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.
1. Cơ quan, người
tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân
dân.
2. Cơ quan, người
tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi
phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, người
tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy
định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề
nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự theo yêu cầu chính
đáng của họ.
4. Người tiến hành tố
tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức thì Toà án phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố
tụng có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.
Toà án xét xử tập thể
vụ án dân sự và quyết định theo đa số.
1. Việc xét xử vụ án
dân sự của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ
trường hợp do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ
bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu
chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Chánh án Toà án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố
tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1. Toà án thực hiện
chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ
thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ
luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết
định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có
tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
theo quy định của Bộ luật này.
Toà án cấp trên giám
đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét
xử của Toà án các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công
dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp
hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm
vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Tiếng nói và chữ viết
dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
Người tham gia tố
tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường
hợp này cần phải có người phiên dịch.
1. Viện kiểm sát nhân
dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân
dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương
sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ
việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.
1. Toà án có trách
nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản án, quyết định, giấy triệu
tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người tham gia tố
tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
Toà án chuyển giao trực tiếp không được hoặc qua bưu điện không có kết quả thì
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp
xã) nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
tham gia tố tụng dân sự làm việc có trách nhiệm chuyển giao bản án, quyết định,
giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người
tham gia tố tụng dân sự khi có yêu cầu của Toà án và phải thông báo kết quả
việc chuyển giao đó cho Toà án biết.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật
này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án kịp thời, đúng pháp
luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật
của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức
nào trong hoạt động tố tụng dân sự.
Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho
người đã khiếu nại, tố cáo biết.
THẨM
QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
Mục 1. NHỮNG VỤ VIỆC
DÂN SỰ THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN
Điều 25. Những
tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp giữa cá
nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam .
2. Tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản.
3. Tranh chấp về hợp
đồng dân sự.
4. Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 29 của Bộ luật này.
5. Tranh chấp về thừa
kế tài sản.
6. Tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
7. Tranh chấp về
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về
đất đai.
8. Tranh chấp liên
quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
9. Các tranh chấp
khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Yêu cầu thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó.
3. Yêu cầu tuyên bố
một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
4. Yêu cầu tuyên bố
một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
5. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài
sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản
án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu
thi hành tại Việt Nam.
6. Các yêu cầu khác
về dân sự mà pháp luật có quy định.
1. Ly hôn, tranh chấp
về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác
định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
5. Tranh chấp về cấp
dưỡng.
6. Các tranh chấp
khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu huỷ việc
kết hôn trái pháp luật.
2. Yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
3. Yêu cầu công nhận
sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Yêu cầu hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi
ly hôn.
5. Yêu cầu chấm dứt
việc nuôi con nuôi.
6. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc không
công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài mà
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam .
7. Các yêu cầu khác
về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1. Tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê,
thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu,
trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính,
ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai
thác.
2. Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa
công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp
khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu liên quan
đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp
theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
2. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công
nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không
có yêu cầu thi hành tại Việt Nam .
3. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
4. Các yêu cầu khác
về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1. Tranh chấp lao
động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà
giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao
động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải không thành hoặc không
giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây
không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ luật
lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động;
b) Về bồi thường
thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi chấm
dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp
việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội
theo quy định của pháp luật về lao động;
đ) Về bồi thường
thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
2. Tranh chấp lao
động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng
trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể
lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng
trọng tài lao động, bao gồm:
a) Về quyền và lợi
ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động
khác;
b) Về việc thực hiện
thoả ước lao động tập thể;
c) Về quyền thành
lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
3. Các tranh chấp
khác về lao động mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định lao động của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án,
quyết định lao động của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam .
2. Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định lao động của Trọng tài nước ngoài.
3. Các yêu cầu khác
về lao động mà pháp luật có quy định.
Điều 33. Thẩm
quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
1. Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân
cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau
đây:
a) Tranh chấp về dân
sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh
doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều
29 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao
động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân
cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
a) Yêu cầu về dân sự
quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về hôn
nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 28 của Bộ luật
này.
3. Những tranh chấp,
yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
nhân dân cấp huyện.
1. Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp
tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các
điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều 33 của Bộ
luật này;
b) Yêu cầu về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều
26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 Điều 33 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu
cầu quy định tại khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân
cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33
của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
1. Thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn
cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn
là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định
tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có
quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc
của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn,
nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25,
27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất
động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.
2. Thẩm quyền giải
quyết việc dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi người
bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
b) Toà án nơi người
bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất
tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người
đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;
c) Toà án đã ra quyết
định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết;
d) Toà án nơi người
phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của Toà án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi
hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải
thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành
bản án, quyết định của Toà án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài;
đ) Toà án nơi người
gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn
có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam;
e) Toà án nơi người
phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người
phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải
thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
g) Toà án nơi việc
đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
h) Toà án nơi một
trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm
việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn;
i) Toà án nơi một
trong các bên thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư
trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
k) Toà án nơi cha
hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom
con sau khi ly hôn;
l) Toà án nơi cha, mẹ
nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt
việc nuôi con nuôi;
m) Thẩm quyền của Toà
án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại
Việt Nam
giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về
Trọng tài thương mại.
1. Nguyên đơn có
quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:
a) Nếu không biết nơi
cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị
đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải
quyết;
b) Nếu tranh chấp
phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà
án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
c) Nếu bị đơn không
có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp
dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải
quyết;
d) Nếu tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi
mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;
đ) Nếu tranh chấp về
bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội,
quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện
lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể
yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
e) Nếu tranh chấp
phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò
trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi người sử dụng lao động là
chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò
trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
g) Nếu tranh chấp
phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng
được thực hiện giải quyết;
h) Nếu các bị đơn cư
trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
i) Nếu tranh chấp bất
động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
2. Người yêu cầu có
quyền lựa chọn Toà án giải quyết yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong
các trường hợp sau đây:
a) Đối với các yêu
cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này thì
người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ sở
giải quyết;
b) Đối với yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật này
thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn
trái pháp luật giải quyết;
c) Đối với yêu cầu
hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con
sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi người con cư trú
giải quyết.
1. Vụ việc dân sự đã
được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đã thụ lý thì Toà
án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án có thẩm quyền và xoá
sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan.
Đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn ba ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển
vụ việc dân sự phải giải quyết khiếu nại.
2. Tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do Chánh án Toà án
nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
3. Tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án
nhân dân tối cao giải quyết.
1. Toà án có thể nhập
hai hoặc nhiều vụ án mà Toà án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải
quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp
luật.
2. Toà án có thể tách
một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và
việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật.
3. Khi nhập hoặc tách
vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Toà án đã thụ lý vụ án phải ra
quyết định và gửi ngay cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
CƠ
QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG
Điều 39. Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
1. Các cơ quan tiến
hành tố tụng gồm có:
a) Toà án nhân dân;
b) Viện kiểm sát nhân
dân.
2. Những người tiến
hành tố tụng gồm có:
a) Chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;
b) Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên.
1. Chánh án Toà án có
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức công tác
giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án;
b) Quyết định phân
công Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng
xét xử vụ án dân sự; quyết định phân công Thư ký Toà án tiến hành tố tụng đối
với vụ việc dân sự;
c) Quyết định thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà;
d) Quyết định thay
đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà;
đ) Ra các quyết định
và tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu
nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này;
g) Kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Chánh án vắng
mặt, một Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Chánh án quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước
Chánh án về nhiệm vụ được giao.
1. Tiến hành lập hồ
sơ vụ án.
2. Quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Quyết định đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.
4. Tiến hành hoà giải
để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của
Bộ luật này; ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
5. Quyết định đưa vụ
án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải quyết.
6. Quyết định triệu
tập những người tham gia phiên toà.
7. Tham gia xét xử
các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự.
8. Tiến hành các hoạt
động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
1. Nghiên cứu hồ sơ
vụ án trước khi mở phiên toà.
2. Đề nghị Chánh án
Toà án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền.
3. Tham gia xét xử
các vụ án dân sự.
4. Tiến hành các hoạt
động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử
khi xét xử vụ án dân sự.
1. Chuẩn bị các công
tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên toà.
2. Phổ biến nội quy
phiên toà.
3. Báo cáo với Hội
đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà.
4. Ghi biên bản phiên
toà.
5. Thực hiện các hoạt
động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
1. Khi thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Viện
trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo
thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
dân sự;
b) Quyết định phân
công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng, tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân
sự theo quy định của Bộ luật này;
c) Kiểm tra hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên;
d) Quyết định thay
đổi Kiểm sát viên;
đ) Kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án theo
quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu
nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Viện trưởng
vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Khi được phân công
thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự,
Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự
của Toà án;
2. Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
3. Kiểm sát các bản
án, quyết định của Toà án;
4. Tham gia phiên toà
xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;
5. Thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của
Viện trưởng Viện kiểm sát.
Người tiến hành tố
tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau
đây:
1. Họ đồng thời là
đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;
2. Họ đã tham gia với
tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng
cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp
sau đây:
1. Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ cùng trong một
Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
3. Họ đã tham gia xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó, trừ trường hợp là
thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà
án nhân dân cấp tỉnh thì vẫn được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
4. Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Kiểm sát viên phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Thư ký Toà án phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
1. Việc từ chối tiến
hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trước khi mở phiên
toà phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ lý do và căn cứ của việc từ
chối tiến hành tố tụng hoặc của việc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
2. Việc từ chối tiến
hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà phải
được ghi vào biên bản phiên toà.
1. Trước khi mở phiên
toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án do Chánh án Toà
án quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà
án cấp trên trực tiếp quyết định.
Trước khi mở phiên
toà, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết
định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
2. Tại phiên toà,
việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên do Hội
đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội
đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên thì Hội
đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Toà án thay thế người bị thay đổi do Chánh án Toà án quyết định; nếu
người bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp
quyết định. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát viên bị thay đổi do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện
trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết
định.
THÀNH
PHẦN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
Điều 52. Thành
phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Hội đồng xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp
đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm
nhân dân.
Hội đồng xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán.
1. Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp
tỉnh.
Khi Uỷ ban thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên
tham gia.
2. Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao gồm có ba Thẩm phán.
3. Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao.
Khi Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành
viên tham gia.
1. Những yêu cầu về
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và khoản 3 Điều 30, Điều 32 của Bộ
luật này hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc
dân sự do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
2. Những yêu cầu về
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do một Thẩm phán giải quyết.
3. Thành phần giải
quyết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của
Bộ luật này được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
NGƯỜI
THAM GIA TỐ TỤNG
Mục 1. ĐƯƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ
Điều 56. Đương sự
trong vụ án dân sự
1. Đương sự trong vụ
án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Nguyên đơn trong
vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do
Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do
Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên
đơn.
3. Bị đơn trong vụ án
dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do
Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
4. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị
kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà
án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp việc
giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào
đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1. Năng lực pháp luật
tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp
luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân
sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
2. Năng lực hành vi
tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Đương sự là người
từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đương sự là người
chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực
hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người
này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
5. Đương sự là người
từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện.
6. Đương sự là người
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp
đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình
tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ
dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện hợp
pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho họ tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
7. Đương sự là cơ
quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.
1. Các đương sự có
các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
2. Khi tham gia tố
tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp chứng cứ,
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
b) Yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình
để giao nộp cho Toà án;
c) Đề nghị Toà án xác
minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề
nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại
với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập do đương sự
khác yêu cầu;
d) Được biết và ghi
chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà
án thu thập;
đ) Đề nghị Toà án
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Tự thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến hành;
g) Nhận thông báo hợp
lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
h) Tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
i) Tham gia phiên
toà;
k) Yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
l) Đề xuất với Toà án
những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng;
m) Tranh luận tại
phiên toà;
n) Được cấp trích lục
bản án, quyết định của Toà án;
o) Kháng cáo, khiếu
nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
p) Phát hiện và thông
báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
q) Phải có mặt theo
giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án trong thời
gian giải quyết vụ án;
r) Tôn trọng Toà án,
chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
s) Nộp tiền tạm ứng
án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
t) Chấp hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
u) Các quyền, nghĩa
vụ khác mà pháp luật có quy định.
1. Nguyên đơn có các
quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa
vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Rút một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện;
c) Đề nghị Toà án đưa
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;
d) Đề nghị Toà án tạm
đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Nguyên đơn đã được
Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ
việc khởi kiện.
1. Bị đơn có các
quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa
vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Đưa ra yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề
nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
d) Được Toà án thông
báo về việc bị khởi kiện.
2. Bị đơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt
bị đơn.
1. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa
vụ quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Có thể có yêu cầu
độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
2. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
3. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có
quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ
luật này.
4. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa
vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
1. Trường hợp đương
sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ
được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
2. Trường hợp đương
sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải
thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì việc kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự đó được xác định như sau:
a) Trường hợp tổ chức
phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó
hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;
b) Trường hợp cơ
quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan nhà nước, đơn vị
vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ
quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức được giao tiếp
nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng;
c) Trường hợp tổ chức
hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ
chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng.
3. Trường hợp đương
sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại diện hoặc người quản lý đang
tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham
gia tố tụng; nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì cá nhân là
thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng.
Điều 63. Người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp
nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Những người sau
đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự:
a) Luật sư tham gia
tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;
b) Công dân Việt Nam
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được
xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính; không phải là
cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an.
3. Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những
người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ
án.
1. Tham gia tố tụng
từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên toà
giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
2. Xác minh, thu thập
chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi
chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3. Tham gia việc hoà
giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
4. Thay mặt đương sự
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy
định của Bộ luật này.
5. Giúp đương sự về
mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
6. Các quyền, nghĩa
vụ quy định tại các điểm m, q và r khoản 2 Điều 58 của Bộ luật này.
Người biết các tình
tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu tập tham gia tố
tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không
thể là người làm chứng.
1. Cung cấp toàn bộ
những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải
quyết vụ án.
2. Khai báo trung
thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
3. Được từ chối khai
báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí
mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi
cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.
4. Được nghỉ việc
trong thời gian Toà án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc trong cơ quan,
tổ chức.
5. Được hưởng các
khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
6. Yêu cầu Toà án đã
triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia
tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng.
7. Bồi thường thiệt
hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những lời khai báo sai sự thật gây
thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.
8. Phải có mặt tại
phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu việc lấy lời khai của người làm
chứng phải thực hiện công khai tại phiên toà; trường hợp người làm chứng không đến
phiên toà mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho
việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng
đến phiên toà.
9. Phải cam đoan
trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ người làm chứng là
người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai
sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có
lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Người giám định là
người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh
vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn hoặc
được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các
bên đương sự.
1. Người giám định có
các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Được đọc các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Toà án
cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định;
b) Đặt câu hỏi đối
với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám
định;
c) Phải có mặt theo
giấy triệu tập của Toà án, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và
kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ, khách quan;
d) Phải thông báo
bằng văn bản cho Toà án biết về việc không thể giám định được do việc cần giám
định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp phục vụ cho việc giám định
không đủ hoặc không sử dụng được;
đ) Phải bảo quản tài
liệu đã nhận và gửi trả lại Toà án cùng với kết luận giám định hoặc cùng với
thông báo về việc không thể giám định được;
e) Không được tự mình
thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc với những người tham gia tố
tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến kết quả giám định; không được
tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc thông báo
kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp Thẩm phán quyết định trưng cầu
giám định;
g) Được hưởng các
khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật;
h) Phải cam đoan
trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
2. Người giám định từ
chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng hoặc kết luận giám định
sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính
đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Người giám định
phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố
tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người
làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố
tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án,
Kiểm sát viên.
Người phiên dịch là
người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong
trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên
dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn và được Toà án chấp nhận hoặc
được Toà án yêu cầu để phiên dịch.
1. Người phiên dịch
có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Phải có mặt theo
giấy triệu tập của Toà án;
b) Phải phiên dịch
trung thực, khách quan, đúng nghĩa;
c) Đề nghị người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói cần phiên dịch;
d) Không được tiếp
xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng
đến tính trung thực, khách quan, đúng nghĩa khi phiên dịch;
đ) Được hưởng các
khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật;
e) Phải cam đoan
trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
2. Người phiên dịch
cố ý dịch sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do
chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Người phiên dịch
phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố
tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người
làm chứng, người giám định trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố
tụng với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
4. Những quy định của
Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của người câm, người
điếc.
Trong trường hợp chỉ
có người đại diện hoặc người thân thích của người câm, người điếc biết được dấu
hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Toà án chấp
nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó.
Điều 71. Thủ tục
từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người
phiên dịch
1. Việc từ chối giám
định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch trước
khi mở phiên toà phải được lập thành văn bản nêu rõ lý do của việc từ chối hoặc
đề nghị thay đổi.
2. Việc từ chối giám
định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch tại
phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
1. Trước khi mở phiên
toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Chánh án Toà án quyết
định.
2. Tại phiên toà,
việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử quyết định
sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận
tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải
thay đổi người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên toà. Việc trưng cầu người giám định khác hoặc thay người phiên dịch
khác được thực hiện theo quy định tại Điều 67 và Điều 69 của Bộ luật này.
1. Người đại diện
trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện
theo uỷ quyền.
2. Người đại diện
theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy
định của pháp luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại
diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.
3. Người đại diện
theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo uỷ
quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền
cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
1. Người đại diện
theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự của đương sự mà mình là đại diện.
2. Người đại diện
theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
theo nội dung văn bản uỷ quyền.
1. Những người sau
đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là
đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp
pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là
người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp
của người được đại diện trong cùng một vụ án.
2. Quy định tại khoản
1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp đại diện theo uỷ quyền trong tố
tụng dân sự.
3. Cán bộ, công chức
trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong
tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện
cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Trong khi tiến hành
tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà
không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này thì Toà án
phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Toà án.
Người đại diện theo
pháp luật, người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại
diện theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Trong trường hợp
chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã
khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia tố tụng dân sự
hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục do Bộ luật
này quy định.
2. Trong trường hợp
chấm dứt đại diện theo uỷ quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự
trực tiếp tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người khác đại diện tham gia tố
tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
CHỨNG
MINH VÀ CHỨNG CỨ
Điều 79. Nghĩa vụ
chứng minh
1. Đương sự có yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối
yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ
và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan
tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ
để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa
vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa
ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng
minh không đầy đủ đó.
1. Những tình tiết,
sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết,
sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án thừa nhận;
b) Những tình tiết,
sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực
pháp luật;
c) Những tình tiết,
sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Một bên đương sự
thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa
ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người
đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự
thừa nhận của đương sự.
Chứng cứ trong vụ
việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối
của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Chứng cứ được thu
thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương
sự;
4. Lời khai của người
làm chứng;
5. Kết luận giám
định;
6. Biên bản ghi kết
quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá
tài sản;
9. Các nguồn khác mà
pháp luật có quy định.
1. Các tài liệu đọc
được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng,
chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe
được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác
nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm,
thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng
cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương
sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn
bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại
khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.
5. Kết luận giám định
được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết
quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham
gia thẩm định.
7. Tập quán được coi
là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
8. Kết quả định giá
tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do
pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy định
tại khoản 1 Điều này.
1. Trong quá trình
Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng
cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu
quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
2. Việc đương sự giao
nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ.
Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ;
số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người
giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai
bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp
chứng cứ giữ.
3. Đương sự giao nộp
cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo
bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Trong trường hợp
xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì
Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
2. Trong trường hợp
đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán
có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của
đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám
định;
c) Quyết định định
giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định
tại chỗ;
đ) Uỷ thác thu thập
chứng cứ;
e) Yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật
khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
3. Khi tiến hành các
biện pháp quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 2 Điều này, Thẩm phán
phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Toà án.
Đương sự có quyền
khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án. Khiếu nại
của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự và xem
xét việc tham gia phiên toà.
Trong trường hợp cần
thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
1. Thẩm phán chỉ tiến
hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản
khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình.
Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của
đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà
đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi
lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại
trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự
ngoài trụ sở Toà án.
2. Biên bản ghi lời
khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên
hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên
bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của
người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Toà án; nếu biên bản
được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp
lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Toà án
thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
3. Việc lấy lời khai của
đương sự thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 57
của Bộ luật này phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp
của đương sự đó.
1. Theo yêu cầu của
đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của
người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.
2. Thủ tục lấy lời
khai của người làm chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự quy
định tại khoản 2 Điều 86 của Bộ luật này.
3. Việc lấy lời khai
của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc
người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.
1. Theo yêu cầu của
đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự,
người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa
đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau.
2. Việc đối chất phải
được ghi thành biên bản, có chữ ký của những người tham gia đối chất.
1. Việc xem xét, thẩm
định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân
dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và
phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến
việc xem xét, thẩm định đó.
2. Việc xem xét, thẩm
định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem
xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và
chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Uỷ ban nhân dân
cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những
người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên
bản, người xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu xác
nhận.
1. Theo sự thoả thuận
lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự,
Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám
định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định,
những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám
định.
2. Người giám định
nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến hành giám định theo quy định
của pháp luật.
3. Trong trường hợp
xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì
theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định
bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành
giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy
định của pháp luật.
1. Trong trường hợp
chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại;
nếu không rút lại, người tố cáo có quyền yêu cầu Toà án trưng cầu giám định
theo quy định tại Điều 90 của Bộ luật này.
2. Trường hợp việc
giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan điều tra
hình sự có thẩm quyền.
3. Người đưa ra chứng
cứ giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại
cho người khác.
1. Toà án ra quyết
định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của
một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thoả thuận
theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí.
2. Hội đồng định giá
do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng và các thành viên là đại
diện cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan. Hội đồng định
giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Trong
trường hợp cần thiết, đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá
được mời chứng kiến việc định giá. Các đương sự được thông báo trước về thời
gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc
định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội đồng định
giá.
3. Cơ quan tài chính
và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Hội
đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ. Người được cử làm thành viên
Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào việc định giá.
4. Việc định giá phải
được ghi thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của từng thành viên, của đương
sự nếu họ tham dự. Quyết định của Hội đồng định giá phải được quá nửa tổng số
thành viên biểu quyết tán thành. Các thành viên Hội đồng định giá, đương sự,
người chứng kiến ký tên vào biên bản.
1. Trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác
hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều này lấy lời khai của đương
sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc các biện pháp
khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
2. Trong quyết định
uỷ thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và
những công việc cụ thể uỷ thác để thu thập chứng cứ.
3. Toà án nhận được
quyết định uỷ thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được uỷ thác trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác và thông báo kết
quả bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác; trường hợp không thực
hiện được việc uỷ thác thì phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc
không thực hiện được việc uỷ thác cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác.
4. Trong trường hợp
việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì Toà án làm
thủ tục uỷ thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc các cơ quan
tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã ký kết hiệp định
tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều ước quốc tế có quy định về
vấn đề này.
1. Trong trường hợp
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không
thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Toà
án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng
cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu thập được; họ, tên, địa chỉ của
cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần
thu thập đó.
2. Toà án có thể trực
tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ
cung cấp cho mình chứng cứ.
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời
chứng cứ theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu.
1. Chứng cứ đã được
giao nộp tại Toà án thì việc bảo quản chứng cứ đó do Toà án chịu trách nhiệm.
2. Chứng cứ không thể
giao nộp được tại Toà án thì người đang lưu giữ chứng cứ đó có trách nhiệm bảo
quản.
3. Trong trường hợp
cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập
biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên
bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.
1. Việc đánh giá
chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Toà án phải đánh
giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý
của từng chứng cứ.
1. Mọi chứng cứ được
công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này.
2. Toà án không công
bố công khai chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của
dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo
yêu cầu chính đáng của đương sự.
3. Người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật những
chứng cứ thuộc trường hợp không công bố công khai quy định tại khoản 2 Điều
này.
1. Trong trường hợp
chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu
thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà án quyết định áp dụng các
biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có thể quyết định áp dụng một
hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi
hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.
2. Trong trường hợp
người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ
hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có quyền quyết định buộc người có
hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe doạ, khống
chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đe doạ, khống chế hoặc
mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về
trách nhiệm hình sự.
CÁC
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
Điều 99. Quyền yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Trong quá trình
giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan,
tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Toà án
đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
2. Trong trường hợp
do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm
trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà
án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại
Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó.
3. Toà án chỉ tự mình
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại
Điều 119 của Bộ luật này.
1. Việc áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do một Thẩm phán
xem xét, quyết định.
2. Việc áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên toà do Hội đồng xét xử xem
xét, quyết định.
1. Người yêu cầu Toà
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
2. Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Toà án phải bồi thường
nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án tự mình áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
b) Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ
quan, tổ chức có yêu cầu;
c) Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1. Giao người chưa
thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện
trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện
trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm
phạm.
4. Buộc người sử dụng
lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ việc
thi hành quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản
đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch
quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện
trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho
bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
10. Phong toả tài
khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản
ở nơi gửi giữ.
11. Phong toả tài sản
của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc
đương sự thực hiện hành vi nhất định.
13. Các biện pháp
khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Điều 103. Giao
người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục
Giao người chưa thành
niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp
dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến người chưa thành niên chưa có
người giám hộ.
Buộc thực hiện trước
một phần nghĩa vụ cấp dưỡng được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan
đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực
hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống
của người được cấp dưỡng.
Điều 105. Buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm
phạm
Buộc thực hiện trước
một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm được
áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và
cần thiết.
Điều 106. Buộc
người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động
Buộc người sử dụng
lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án
có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và
cần thiết.
Tạm đình chỉ thi hành
quyết định sa thải người lao động được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có
liên quan đến sa thải người lao động và xét thấy quyết định sa thải người lao
động là trái pháp luật hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người lao
động.
1. Kê biên tài sản
đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản.
2. Tài sản bị kê biên
có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao
cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của
Toà án.
Cấm chuyển dịch quyền
về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình
giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang
tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh
chấp cho người khác.
Cấm thay đổi hiện
trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án
có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có
hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện
trạng tài sản đó.
Cho thu hoạch, cho
bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác được áp dụng nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp mà có hoa
màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản
được lâu dài.
Phong toả tài khoản
tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước được áp dụng nếu trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản
tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho
việc thi hành án.
Phong toả tài sản ở
nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là
cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành
án.
Phong toả tài sản của
người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ
cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần
thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Cấm hoặc buộc thực
hiện một số hành vi nhất định được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án
có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc
không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ
án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang
được Toà án giải quyết.
Trong trường hợp do
pháp luật quy định, Toà án có trách nhiệm giải quyết yêu cầu áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngoài những trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3,
4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 102 của Bộ luật này.
1. Người yêu cầu Toà
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Toà án có thẩm
quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung
chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
viết đơn;
b) Tên, địa chỉ của
người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tên, địa chỉ của
người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
d) Tóm tắt nội dung
tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
đ) Lý do cần phải áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp
tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tuỳ theo yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Toà án
chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời đó.
2. Đối với trường hợp
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 99 của Bộ
luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết.
Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực
hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm
quy định tại Điều 120 của Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm
phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
Trường hợp Hội đồng
xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên toà thì
Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay
hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại
Điều 120 của Bộ luật này.
3. Đối với trường hợp
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ
luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ
kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu
cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán
phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không
chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho
người yêu cầu biết.
4. Trong trường hợp
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 102
của Bộ luật này thì chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương
đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có
nghĩa vụ phải thực hiện.
Điều 118. Kiến nghị
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo
vệ quyền và lợi ích của người khác
Cơ quan, tổ chức khởi
kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này kiến nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời bằng văn bản trong đó phải nêu rõ lý do kiến nghị Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng; tên, địa
chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ; tên, địa chỉ của
người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tóm tắt nội dung tranh
chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; chứng cứ để
chứng minh cho việc kiến nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Toà án tự mình ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3,
4 và 5 Điều 102 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1. Người yêu cầu Toà
án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6,
7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý,
đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa
vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.
Đối với trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì thời hạn thực hiện biện pháp
bảo đảm quy định tại Điều này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn
yêu cầu.
2. Khoản tiền, kim
khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong toả tại
ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong thời hạn do Toà án ấn định.
Trong trường hợp thực
hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ thì khoản tiền bảo đảm được
gửi giữ tại Toà án. Toà án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó
vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.
Khi xét thấy biện
pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải
thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác thì thủ tục thay
đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được thực hiện theo quy
định tại Điều 117 của Bộ luật này.
1. Toà án ra ngay
quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi có một trong
các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ;
b) Người phải thi
hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người
khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự
của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Trong trường hợp
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải xem xét, quyết định để người
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại khoản tiền, kim khí quý,
đá quý hoặc giấy tờ có giá bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, trừ
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 101 của Bộ luật này.
1. Quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay.
2. Toà án phải cấp
hoặc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay
sau khi ra quyết định cho người có yêu cầu, người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 124. Khiếu
nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ hoặc không áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Đương sự có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết
vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc
việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả
lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 125. Giải
quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ hoặc không
áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Chánh án Toà án
phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy định tại Điều 124 của Bộ luật
này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
2. Quyết định giải
quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được
cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật này.
3. Tại phiên toà,
việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định
cuối cùng.
1. Quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Trong trường hợp
quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản có đăng ký
quyền sở hữu thì đương sự có nghĩa vụ nộp bản sao quyết định cho cơ quan quản
lý đăng ký quyền sở hữu.
ÁN
PHÍ, LỆ PHÍ VÀ CÁC CHI PHÍ TỐ TỤNG KHÁC
Mục 1. ÁN PHÍ, LỆ PHÍ
Điều 127. Tiền tạm
ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí
1. Tiền tạm ứng án
phí bao gồm tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
2. Án phí bao gồm án
phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm.
3. Lệ phí bao gồm lệ
phí cấp bản sao bản án, quyết định và các giấy tờ khác của Toà án, lệ phí nộp
đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự, lệ phí giải quyết việc dân sự và các
khoản lệ phí khác mà pháp luật có quy định.
1. Toàn bộ án phí, lệ
phí thu được phải nộp đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà
nước.
2. Tiền tạm ứng án
phí, tiền tạm ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi
vào tài khoản tạm giữ mở tại kho bạc nhà nước và được rút ra để thi hành án
theo quyết định của Toà án.
3. Người đã nộp tiền
tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải chịu án phí, lệ phí thì ngay sau khi
bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành, số tiền tạm ứng đã thu được
phải được nộp vào ngân sách nhà nước.
Trong trường hợp
người đã nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được hoàn trả một phần
hoặc toàn bộ số tiền đã nộp theo bản án, quyết định của Toà án thì cơ quan thi
hành án đã thu tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải làm thủ tục trả
lại tiền cho họ.
4. Trong trường hợp
việc giải quyết vụ việc dân sự bị tạm đình chỉ thì tiền tạm ứng án phí, tiền
tạm ứng lệ phí đã nộp được xử lý khi vụ việc được tiếp tục giải quyết.
Việc thu tiền tạm ứng
án phí và án phí, tiền tạm ứng lệ phí và lệ phí; việc chi trả tiền tạm ứng án
phí, tiền tạm ứng lệ phí phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
1. Nguyên đơn, bị đơn
có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm,
người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm,
trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Người nộp đơn yêu
cầu Toà án giải quyết việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc
dân sự đó, trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
1. Đương sự phải chịu
án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Toà án chấp nhận, trừ trường hợp
được miễn nộp án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp án phí sơ thẩm.
2. Trong trường hợp
các bên đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài
sản chung và có yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi bên
đương sự phải nộp án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được
hưởng.
3. Trước khi mở phiên
toà, Toà án tiến hành hoà giải nếu các bên đương sự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Trong vụ án ly hôn
thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Toà án chấp
nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trong trường hợp cả hai thuận
tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm.
5. Trong vụ án có
đương sự được miễn nộp án phí sơ thẩm thì đương sự khác vẫn phải nộp án phí sơ
thẩm mà mình phải chịu theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
6. Trong trường hợp
vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết thì nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm được quyết
định khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4
và 5 Điều này.
1. Đương sự kháng cáo
phải nộp án phí phúc thẩm, nếu Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp án phí
phúc thẩm.
2. Trong trường hợp
Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo thì đương sự
kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm; Toà án cấp phúc thẩm phải xác định
lại nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp
Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để xét xử sơ
thẩm lại thì đương sự kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm; nghĩa vụ nộp
án phí được xác định lại khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
Nghĩa vụ nộp lệ phí
được xác định tuỳ theo từng loại việc dân sự cụ thể và do pháp luật quy định.
án phí, mức án phí
đối với mỗi loại vụ án cụ thể, các loại lệ phí, mức lệ phí cụ thể, các trường
hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, các
trường hợp được miễn hoặc không phải nộp án phí, lệ phí và các vấn đề cụ thể
khác liên quan đến án phí, lệ phí chưa được quy định trong Bộ luật này do Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều 135. Tiền tạm
ứng chi phí giám định, chi phí giám định
1. Tiền tạm ứng chi
phí giám định là số tiền tổ chức, cá nhân được Toà án trưng cầu giám định tạm
tính để tiến hành việc giám định theo quyết định của Toà án.
2. Chi phí giám định
là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc giám định và do tổ
chức, cá nhân thực hiện việc giám định tính căn cứ vào quy định của pháp luật.
1. Người yêu cầu trưng
cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, trừ trường hợp các bên
đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp
các bên đương sự thoả thuận lựa chọn tổ chức giám định hoặc cùng yêu cầu về
cùng một đối tượng trưng cầu giám định thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số
tiền tạm ứng chi phí giám định, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
1. Trong trường hợp người
đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định không phải nộp chi phí giám định thì
người phải nộp chi phí giám định theo quyết định của Toà án phải hoàn trả cho
người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định.
2. Trong trường hợp
người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định phải nộp chi phí giám định, nếu số
tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí giám định thực tế thì họ phải nộp thêm
phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp cao hơn chi phí giám định
thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Trong trường hợp các
bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì
nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định được xác định như sau:
1. Người yêu cầu
trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định, nếu kết quả giám định
chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp
nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định, nếu kết quả
giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu trưng cầu giám định là có căn
cứ.
1. Tiền tạm ứng chi
phí định giá là số tiền mà Hội đồng định giá tạm tính để tiến hành việc định
giá theo quyết định của Toà án.
2. Chi phí định giá
là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc định giá và do Hội
đồng định giá tính căn cứ vào quy định của pháp luật.
1. Người yêu cầu định
giá phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, trừ trường hợp các bên đương sự có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp
các bên đương sự không thống nhất được về giá mà yêu cầu Toà án định giá hoặc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ luật này thì mỗi bên
đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí định giá.
1. Trong trường hợp
người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá không phải nộp chi phí định giá thì
người phải nộp chi phí định giá theo quyết định của Toà án phải hoàn trả cho
người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá.
2. Trong trường hợp
người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá phải nộp chi phí định giá, nếu số
tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí định giá thực tế thì họ phải nộp thêm
phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp cao hơn chi phí định giá
thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Trong trường hợp các
bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì
nghĩa vụ nộp tiền chi phí định giá được xác định như sau:
1. Người yêu cầu định
giá phải nộp tiền chi phí định giá, nếu kết quả định giá chứng minh yêu cầu của
người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp
nhận yêu cầu định giá phải nộp chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh
yêu cầu của người yêu cầu định giá là có căn cứ;
3. Trong trường hợp
các bên không thống nhất được về giá mà yêu cầu Toà án định giá thì mỗi bên
đương sự phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá;
4. Trong trường hợp
Toà án ra quyết định định giá quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ luật
này thì:
a) Mỗi bên đương sự
phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh quyết
định định giá của Toà án là có căn cứ;
b) Toà án trả chi phí
định giá nếu kết quả định giá chứng minh quyết định định giá của Toà án là
không có căn cứ;
5. Trong trường hợp
định giá để chia tài sản chung thì mỗi người được chia tài sản phải chịu phần
chi phí định giá theo tỷ lệ giá trị phần tài sản mà họ được chia.
1. Chi phí hợp lý và
thực tế cho người làm chứng do đương sự chịu.
2. Người đề nghị Toà
án triệu tập người làm chứng phải chịu tiền chi phí cho người làm chứng nếu lời
làm chứng phù hợp sự thật nhưng không đúng với yêu cầu của người đề nghị. Trong
trường hợp lời làm chứng phù hợp với sự thật và đúng với yêu cầu của người đề
nghị triệu tập người làm chứng thì chi phí này do đương sự có yêu cầu độc lập
với yêu cầu của người đề nghị chịu.
1. Chi phí cho người
phiên dịch là khoản tiền phải trả cho người phiên dịch trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự theo thoả thuận của đương sự với người phiên dịch hoặc
theo quy định của pháp luật.
2. Chi phí cho luật
sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thoả thuận của đương sự với luật sư
trong phạm vi quy định của Văn phòng luật sư và theo quy định của pháp luật.
3. Chi phí cho người
phiên dịch, cho luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương
sự có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp
Toà án yêu cầu người phiên dịch thì chi phí cho người phiên dịch do Toà án trả.
Chi phí cụ thể về
giám định, định giá và chi phí cụ thể cho người làm chứng, người phiên dịch,
luật sư do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
CẤP,
TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG
Điều 146. Nghĩa vụ
cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Toà án, Viện kiểm
sát, cơ quan thi hành án có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố
tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan theo quy định của Bộ luật này.
1. Bản án, quyết định
của Toà án.
2. Đơn khởi kiện, đơn
kháng cáo, quyết định kháng nghị.
3. Giấy báo, giấy
triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự.
4. Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và các chi phí khác.
5. Các văn bản tố
tụng khác mà pháp luật có quy định.
1. Việc cấp, tống đạt
hoặc thông báo văn bản tố tụng do những người sau đây thực hiện:
a) Người tiến hành tố
tụng, người của cơ quan ban hành văn bản tố tụng được giao nhiệm vụ thực hiện
việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng;
b) Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
tham gia tố tụng dân sự làm việc khi Toà án có yêu cầu;
c) Đương sự, người
đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong những trường hợp do Bộ luật này quy định;
d) Nhân viên bưu
điện;
đ) Những người khác
mà pháp luật có quy định.
2. Người có nghĩa vụ
thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo mà không làm đúng trách nhiệm của
mình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Việc cấp, tống đạt
hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện bằng các phương thức sau đây:
1. Cấp, tống đạt,
thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người thứ ba được uỷ quyền;
2. Niêm yết công
khai;
3. Thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
1. Việc cấp, tống đạt
hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này thì
được coi là hợp lệ.
2. Người có nghĩa vụ
thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải thực hiện theo
quy định của Bộ luật này.
Người có nghĩa vụ thi
hành các văn bản tố tụng đã được cấp, tống đạt hoặc thông báo hợp lệ phải
nghiêm chỉnh thi hành; trường hợp không thi hành hoặc thi hành không đúng thì
tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật.
Người thực hiện việc
cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người
được cấp, tống đạt hoặc thông báo phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận
văn bản tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống
đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng.
1. Người được cấp,
tống đạt hoặc thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp
cho họ.
2. Trong trường hợp
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt thì văn bản tố tụng có thể
được giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ
ký nhận và yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp,
tống đạt hoặc thông báo. Ngày ký nhận của người thân thích cùng cư trú được coi
là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Trong trường hợp
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo không có người thân thích có đủ năng
lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng họ không chịu nhận hộ văn bản tố
tụng thì có thể chuyển giao văn bản đó cho tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn,
làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum, sóc (sau đây gọi chung là tổ trưởng tổ dân
phố), Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn nơi người được cấp, tống
đạt hoặc thông báo cư trú và yêu cầu những người này cam kết giao lại tận tay
ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
3. Trong trường hợp
việc cấp, tống đạt hoặc thông báo qua người khác thì người thực hiện phải lập
biên bản ghi rõ việc người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt, văn bản
tố tụng đã được giao cho ai; lý do; ngày, giờ giao; quan hệ giữa họ với nhau;
cam kết giao lại tận tay ngay văn bản tố tụng cho người được cấp, tống đạt hoặc
thông báo. Biên bản có chữ ký của người nhận chuyển văn bản tố tụng và người
thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo, người chứng kiến.
4. Trong trường hợp
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo đã chuyển đến địa chỉ mới thì phải cấp,
tống đạt hoặc thông báo theo địa chỉ mới của họ.
5. Trong trường hợp
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về
hoặc không rõ địa chỉ thì người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo
phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông
báo có chữ ký của người cung cấp thông tin.
6. Trong trường hợp
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng thì người
thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ
lý do của việc từ chối, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân,
công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng.
Trường hợp người được
cấp, tống đạt hoặc thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng phải được
giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm
nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt hoặc thông báo có người
đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những
người này ký nhận văn bản tố tụng đó. Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt
hoặc thông báo.
1. Việc niêm yết công
khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được
cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt
hoặc thông báo trực tiếp.
2. Việc niêm yết công
khai văn bản tố tụng do Toà án trực tiếp hoặc uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân cấp
xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông
báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:
a) Niêm yết bản chính
tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng
của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
b) Niêm yết bản sao
tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc
thông báo;
c) Lập biên bản về
việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm
niêm yết.
3. Thời gian niêm yết
công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết.
1. Việc thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy
định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không bảo đảm cho người
được cấp, tống đạt hoặc thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp,
tống đạt hoặc thông báo.
Việc thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng có thể được thực hiện nếu có yêu cầu của các
đương sự khác. Lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng do đương
sự có yêu cầu thông báo phải chịu.
2. Thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên báo hàng ngày của trung
ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền
hình của trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
Trong trường hợp
người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng không phải là
Toà án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán bộ của các cơ quan đó thì
người thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông báo
văn bản tố tụng cho Toà án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng đó.
THỜI
HẠN TỐ TỤNG
Điều 157. Thời hạn
tố tụng
1. Thời hạn tố tụng
là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức
có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này quy định.
2. Thời hạn tố tụng
có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có
thể xảy ra.
Cách tính thời hạn tố
tụng, quy định về thời hạn tố tụng, thời điểm bắt đầu, kết thúc thời hạn tố
tụng trong Bộ luật này được áp dụng theo các quy định tương ứng của Bộ luật dân
sự.
1. Thời hiệu khởi
kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết
vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết
thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu
là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Trong trường hợp
pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì
thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu
để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu
cầu.
Các quy định của Bộ
luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM
Chương XII
KHỞI
KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN
Điều 161. Quyền
khởi kiện vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 162. Quyền
khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi
ích công cộng và lợi ích của Nhà nước
1. Cơ quan về dân số,
gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật
hôn nhân và gia đình quy định.
2. Công đoàn cấp trên
của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
3. Cơ quan, tổ chức
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để
yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực
mình phụ trách.
1. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một
quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải
quyết trong cùng một vụ án.
2. Nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác
về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để
giải quyết trong cùng một vụ án.
3. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có thể khởi kiện đối với một hoặc
nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan
hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
1. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.
2. Đơn khởi kiện phải
có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
làm đơn khởi kiện;
b) Tên Toà án nhận
đơn khởi kiện;
c) Tên, địa chỉ của
người khởi kiện;
d) Tên, địa chỉ của
người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
đ) Tên, địa chỉ của
người bị kiện;
e) Tên, địa chỉ của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
g) Những vấn đề cụ
thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan;
h) Họ, tên, địa chỉ
của người làm chứng, nếu có;
i) Tài liệu, chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
k) Các thông tin khác
mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án;
l) Người khởi kiện là
cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện
hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Người khởi kiện phải
gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1. Người khởi kiện vụ
án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền
giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại
Toà án;
b) Gửi đến Toà án qua
bưu điện.
2. Ngày khởi kiện
được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi
gửi.
Toà án phải nhận đơn
khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải
ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
1. Tiến hành thủ tục
thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;
2. Chuyển đơn khởi
kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án khác;
3. Trả lại đơn khởi
kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án.
1. Toà án trả lại đơn
khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi
kiện đã hết;
b) Người khởi kiện
không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết
định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà
Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức
bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho
thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện
khởi kiện;
d) Hết thời hạn được
thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện
không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều
kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại đơn
khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.
1. Trong trường hợp
đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ
luật này thì Toà án thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung
trong một thời hạn do Toà án ấn định, nhưng không quá ba mươi ngày; trong
trường hợp đặc biệt, Toà án có thể gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày.
2. Trong trường hợp
người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản
2 Điều 164 của Bộ luật này thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không
sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo
do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đã
trả lại đơn khởi kiện.
2. Trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện,
Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc
trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
1. Sau khi nhận đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết
để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải
nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Toà án dự tính số
tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp
tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy
báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền
tạm ứng án phí.
3. Toà án thụ lý vụ
án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Trong trường hợp
người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì
Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán
giải quyết vụ án.
2. Trong quá trình
giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành
được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ;
trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét
xử lại từ đầu.
1. Thông báo về việc
thụ lý vụ án.
2. Yêu cầu đương sự nộp
tài liệu, chứng cứ cho Toà án.
3. Thực hiện một hoặc
một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 của Bộ
luật này.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho
bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
2. Văn bản thông báo
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Toà
án đã thụ lý vụ án;
c) Tên, địa chỉ của
người khởi kiện;
d) Những vấn đề cụ
thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;
đ) Danh sách tài
liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
e) Thời hạn người
được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu của
người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có;
g) Hậu quả pháp lý
của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của mình
đối với yêu cầu.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho
Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
Trong trường hợp cần
gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ
lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không
quá mười lăm ngày.
2. Người được thông
báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
1. Cùng với việc phải
nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện
thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn.
2. Yêu cầu phản tố
của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi có một trong các trường hợp
sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để
bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
b) Yêu cầu phản tố
được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
của nguyên đơn;
c) Giữa yêu cầu phản
tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết
trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh
hơn.
Trong trường hợp
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện
sau đây:
1. Việc giải quyết vụ
án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
2. Yêu cầu độc lập
của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
3. Yêu cầu độc lập
của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh hơn.
Thủ tục yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục
khởi kiện của nguyên đơn.
HOÀ
GIẢI VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ
Điều 179. Thời hạn
chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị
xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án
quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án
quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính
chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc
trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy
định tại điểm b khoản 1 Điều này.
2. Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra
một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả
thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải
quyết vụ án;
c) Đình chỉ giải
quyết vụ án;
d) Đưa vụ án ra xét
xử.
3. Trong thời hạn một
tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà;
trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
1. Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải
hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ
luật này.
2. Việc hoà giải được
tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tôn trọng sự tự
nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực, bắt buộc các đương sự phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình;
b) Nội dung thoả
thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
1. Yêu cầu đòi bồi
thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án dân sự
phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
1. Bị đơn đã được Toà
án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
2. Đương sự không thể
tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ
hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
Trước khi tiến hành
phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các
vấn đề cần hoà giải.
1. Thẩm phán chủ trì
phiên hoà giải.
2. Thư ký Toà án ghi
biên bản hoà giải.
3. Các đương sự hoặc
người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Trong một vụ án có
nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hoà giải, nhưng các đương
sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa các
đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả
các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải.
4. Người phiên dịch,
nếu đương sự không biết tiếng Việt.
Khi tiến hành hoà
giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có
liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của
mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
1. Việc hoà giải được
Thư ký Toà án ghi vào biên bản. Biên bản hoà giải phải có các nội dung chính
sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
tiến hành phiên hoà giải;
b) Địa điểm tiến hành
phiên hoà giải;
c) Thành phần tham
gia phiên hoà giải;
d) ý kiến của các
đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;
đ) Những nội dung đã
được các đương sự thoả thuận, không thoả thuận.
2. Biên bản hoà giải
phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hoà
giải, chữ ký của Thư ký Toà án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hoà
giải.
Khi các đương sự thoả
thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Toà án lập
biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia
hoà giải.
1. Hết thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi
ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán
được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các
đương sự.
Trong thời hạn năm
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận
được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
3. Trong trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thoả thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả thuận đó chỉ có giá trị đối với
những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh
hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận
của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận
này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự
vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản.
1. Quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban
hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2. Quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe
doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
1. Đương sự là cá
nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá
nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan,
tổ chức đó.
2. Một bên đương sự
là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện
theo pháp luật.
3. Chấm dứt đại diện
hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
4. Cần đợi kết quả
giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải
do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
5. Các trường hợp
khác mà pháp luật có quy định.
1. Toà án không xoá
tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào
sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự đó.
2. Tiền tạm ứng án
phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi
Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
3. Quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
Toà án tiếp tục giải
quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ khi lý do tạm đình chỉ không còn.
1. Sau khi thụ lý vụ
án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị
đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức
đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức
nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện
rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền
khởi kiện;
d) Cơ quan, tổ chức
rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu
cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;
đ) Các đương sự đã tự
thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án;
e) Nguyên đơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
g) Đã có quyết định
của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương
sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
h) Các trường hợp
khác mà pháp luật có quy định.
2. Toà án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc
trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 của Bộ luật này.
1. Khi có quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà
án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì
khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp,
trừ các trường hợp quy định tại các điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 của Bộ luật
này và các trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 1
Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung
vào công quỹ nhà nước.
3. Trong trường hợp
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 2
Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả
lại cho người đã nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm.
1. Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Trong thời hạn năm
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
1. Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
ra quyết định;
b) Tên Toà án ra
quyết định;
c) Vụ án được đưa ra
xét xử;
d) Tên, địa chỉ của
nguyên đơn, bị đơn hoặc người khác khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
đ) Họ, tên Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án và họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự
khuyết, nếu có;
e) Họ, tên Kiểm sát
viên tham gia phiên toà, nếu có;
g) Ngày, giờ, tháng,
năm, địa điểm mở phiên toà;
h) Xét xử công khai
hoặc xét xử kín;
i) Họ, tên những
người được triệu tập tham gia phiên toà.
2. Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau
khi ra quyết định.
Trường hợp Viện kiểm
sát tham gia phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì
Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ
cho Toà án.
PHIÊN
TOÀ SƠ THẨM
Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG
VỀ PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Điều 196. Yêu cầu
chung đối với phiên toà sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm
phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa
vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà trong trường hợp phải hoãn
phiên toà.
1. Toà án phải trực
tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những
người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập
được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
vụ án, trong trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Bản án chỉ được
căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được
xem xét, kiểm tra tại phiên toà.
2. Việc xét xử bằng
lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của
Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trừ
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 198 của Bộ luật này.
Trong trường hợp đặc
biệt do Bộ luật này quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá năm
ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục.
1. Trong trường hợp
có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng
có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì những người này được tham gia xét
xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà từ đầu.
Trong trường hợp Hội
đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham
gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên
toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
2. Trong trường hợp
không có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên Hội
đồng xét xử hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có Thẩm phán để thay
thế theo quy định tại khoản 1 Điều này thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
1. Nguyên đơn phải có
mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có
lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Nguyên đơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi
kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp Toà án
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại,
nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
1. Bị đơn phải có mặt
tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý
do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Bị đơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét
xử vắng mặt họ.
1. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án;
nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
3. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý. Trong trường hợp
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập thì
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu
độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Toà án vẫn tiến hành
xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn, bị đơn
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có đơn đề
nghị Toà án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có người đại
diện hợp pháp tham gia phiên toà;
3. Các trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 của Bộ luật này.
Người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của
Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án tiến hành xét xử vụ án; trong trường hợp
này, đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1. Người làm chứng có
nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án. Trong trường hợp người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó
đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gửi lời khai cho Toà án thì chủ toạ
phiên toà công bố lời khai đó.
2. Trường hợp người
làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến
hành xét xử; trường hợp người làm chứng vắng mặt tại phiên toà không có lý do
chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có thể bị
dẫn giải đến phiên toà theo quyết định của Hội đồng xét xử.
1. Người giám định có
nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm rõ những vấn
đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định.
2. Trường hợp người
giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến
hành xét xử.
1. Người phiên dịch
có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án.
2. Trường hợp người
phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết
định hoãn phiên toà, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.
1. Kiểm sát viên được
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên toà.
2. Trong trường hợp
Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên toà hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên
toà xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên
toà xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà từ đầu.
Trong trường hợp
không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên toà và thông báo cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
1. Trong trường hợp
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 51,
khoản 2 Điều 72 và các điều 199, 200, 201, 203, 204, 205, 206, 207, 215 và
khoản 4 Điều 230 của Bộ luật này thì thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá
ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà.
2. Quyết định hoãn
phiên toà phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
ra quyết định;
b) Tên Toà án và họ,
tên những người tiến hành tố tụng;
c) Vụ án được đưa ra
xét xử;
d) Lý do của việc
hoãn phiên toà;
đ) Thời gian, địa
điểm mở lại phiên toà.
3. Quyết định hoãn
phiên toà phải được chủ toạ phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử ký tên và thông
báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết; đối với người vắng mặt thì
Toà án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Trong trường hợp
sau khi hoãn phiên toà mà Toà án không thể mở lại phiên toà đúng thời gian, địa
điểm mở lại phiên toà ghi trong quyết định hoãn phiên toà thì Toà án phải thông
báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng biết về
thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
1. Những người dưới
mười sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Toà án triệu tập
tham gia phiên toà.
Mọi người trong phòng
xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, phải tôn trọng Hội
đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ toạ phiên toà.
Chỉ những người được
Hội đồng xét xử cho phép mới được hỏi, trả lời hoặc phát biểu. Người hỏi, trả
lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp vì lý do sức khoẻ được chủ toạ
phiên toà cho phép ngồi để hỏi, trả lời hoặc phát biểu.
2. Chánh án Toà án
nhân dân tối cao căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều này và các quy định khác
của pháp luật ban hành nội quy phiên toà.
1. Bản án phải được
Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
2. Quyết định thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án,
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên toà phải được thảo
luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.
3. Quyết định về các
vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không
phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên toà.
1. Biên bản phiên toà
phải ghi đầy đủ các nội dung sau đây:
a) Các nội dung chính
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại khoản 1 Điều 195 của Bộ luật
này;
b) Mọi diễn biến tại
phiên toà từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà;
c) Các câu hỏi, câu
trả lời và phát biểu tại phiên toà.
2. Ngoài việc ghi
biên bản phiên toà, việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên toà chỉ có thể
được tiến hành khi được sự đồng ý của Hội đồng xét xử.
3. Sau khi kết thúc
phiên toà, chủ toạ phiên toà phải kiểm tra biên bản và cùng với Thư ký Toà án
ký vào biên bản đó.
4. Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng có quyền được xem biên bản phiên toà ngay sau khi
kết thúc phiên toà, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà
và ký xác nhận.
Trước khi khai mạc
phiên toà, Thư ký Toà án phải tiến hành các công việc sau đây:
1. Phổ biến nội quy
phiên toà;
2. Kiểm tra, xác định
sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập,
giấy báo của Toà án; nếu có người vắng mặt thì cần phải làm rõ lý do;
3. Ổn định trật tự
trong phòng xử án;
4. Yêu cầu mọi người
trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án.
Điều 213. Khai mạc
phiên toà
1. Chủ toạ phiên toà
khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Thư ký Toà án báo
cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên
toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt.
3. Chủ toạ phiên toà
kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập,
giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của đương sự.
4. Chủ toạ phiên toà
phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng
khác.
5. Chủ toạ phiên toà
giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch.
6. Chủ toạ phiên toà
hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.
Trong trường hợp có
người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo thủ tục do Bộ luật này
quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận
thì phải nêu rõ lý do.
Khi có người tham gia
tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc trường hợp Toà án phải hoãn phiên
toà thì chủ toạ phiên toà phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên toà hay không;
nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định theo thủ tục do Bộ
luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không
chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
1. Trước khi người làm
chứng được hỏi về những vấn đề mà họ biết được có liên quan đến việc giải quyết
vụ án, chủ toạ phiên toà có thể quyết định những biện pháp cần thiết để những
người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người
có liên quan.
2. Trong trường hợp
lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ toạ
phiên toà có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi
người làm chứng.
Điều 217. Hỏi đương
sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Thủ tục hỏi được bắt
đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không;
2. Hỏi bị đơn có thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố hay không;
3. Hỏi người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.
1. Hội đồng xét xử
chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố
hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Trong trường hợp
có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của
họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần
yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
1. Trong trường hợp
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu
phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị
đơn.
2. Trong trường hợp
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố,
nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của
mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có
nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
1. Chủ toạ phiên toà
hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay
không. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo
đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương
sự về việc giải quyết vụ án.
2. Quyết định công
nhận sự thoả thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.
1. Trong trường hợp
có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương sự không tự thoả thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án
bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo trình tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ
sung ý kiến.
Trong trường hợp cơ
quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày về yêu
cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và
hợp pháp;
b) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của
nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho
đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên
đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị
của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp
pháp.
3. Tại phiên toà,
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình.
Sau khi nghe xong lời
trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề được thực hiện theo
thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia
tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì Kiểm sát viên
hỏi sau đương sự.
1. Trong trường hợp
có nhiều nguyên đơn thì phải hỏi riêng từng nguyên đơn.
2. Chỉ hỏi nguyên đơn
về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn,
nguyên đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những
lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
những người này.
3. Nguyên đơn có thể
tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trả
lời thay cho nguyên đơn và sau đó nguyên đơn trả lời bổ sung.
1. Trong trường hợp
có nhiều bị đơn thì phải hỏi riêng từng bị đơn.
2. Chỉ hỏi bị đơn về
những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, bị đơn trình
bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ
trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này.
3. Bị đơn có thể tự
mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trả lời
thay cho bị đơn và sau đó bị đơn trả lời bổ sung.
1. Trong trường hợp
có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải hỏi riêng từng người
một.
2. Chỉ hỏi người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về những vấn đề mà họ, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với
những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị
của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này.
3. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ trả lời thay cho họ và sau đó họ trả lời bổ sung.
1. Trong trường hợp
có nhiều người làm chứng thì phải hỏi riêng từng người một.
2. Trước khi hỏi
người làm chứng, chủ toạ phiên toà phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với các đương
sự trong vụ án; nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ toạ phiên
toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để
hỏi.
3. Chủ toạ phiên toà
yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ biết. Sau
khi người làm chứng trình bày xong thì chỉ hỏi thêm người làm chứng về những
điểm mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn
với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Sau khi đã trình
bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
5. Trong trường hợp
cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích
của họ, Hội đồng xét xử quyết định không tiết lộ những thông tin về nhân thân
của người làm chứng và không để những người trong phiên toà nhìn thấy họ.
1. Hội đồng xét xử
công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Người tham gia tố
tụng không có mặt tại phiên toà mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có lời
khai;
b) Những lời khai của
người tham gia tố tụng tại phiên toà mâu thuẫn với những lời khai trước đó;
c) Trong các trường
hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của Kiểm sát viên,
người tham gia tố tụng.
2. Trong trường hợp
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ
bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu
của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án.
Theo yêu cầu của Kiểm
sát viên, người tham gia tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử
cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình tại phiên
toà, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật này.
Vật chứng, ảnh hoặc
biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên toà.
Khi cần thiết, Hội
đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ những vật chứng
không thể đưa đến phiên toà được.
1. Chủ toạ phiên toà
yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám
định. Khi trình bày, người giám định có quyền giải thích bổ sung về kết luận
giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định.
2. Kiểm sát viên,
những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà có quyền nhận xét về kết luận
giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, hoặc có mâu thuẫn trong kết luận
giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.
3. Trong trường hợp
người giám định không có mặt tại phiên toà thì chủ toạ phiên toà công bố kết
luận giám định.
4. Khi có người tham
gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên toà và
có yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, nếu xét thấy việc giám định bổ
sung, giám định lại là cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử
quyết định giám định bổ sung, giám định lại; trong trường hợp này thì Hội đồng
xét xử quyết định hoãn phiên toà.
Khi nhận thấy các
tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát
viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những
người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường
hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ phiên toà
quyết định tiếp tục việc hỏi.
Điều 232. Trình tự
phát biểu khi tranh luận
1. Sau khi kết thúc
việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên toà. Trình tự
phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
a) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý
kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức
trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ có quyền bổ sung ý
kiến;
b) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình phát biểu khi tranh luận.
Khi phát biểu về đánh
giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham
gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được
xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên toà. Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà
không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia
tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên
quan đến vụ án.
Trong trường hợp Kiểm
sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu
tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý
kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Qua tranh luận, nếu
xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy
đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc
hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều 236. Nghị án
1. Sau khi kết thúc
phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.
2. Chỉ có các thành
viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của
Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu
quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán
biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của
mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Khi nghị án chỉ
được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết
quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham
gia tố tụng, Kiểm sát viên.
4. Khi nghị án phải
có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên
bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án
trước khi tuyên án.
5. Trong trường hợp
vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài
thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm
ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
Hội đồng xét xử phải
thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người tham gia tố tụng vắng
mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên án; nếu Hội đồng xét xử đã
thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét
xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Qua nghị án, nếu xét
thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần
xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh
luận.
1. Toà án ra bản án
nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
2. Bản án gồm có phần
mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của Toà án, phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu
phải ghi rõ tên Toà án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và
ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm
sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện; người
đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối
tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét
xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội
dung vụ án và nhận định của Toà án phải ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu phản tố của bị đơn; đề nghị,
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhận định của Toà
án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ để
giải quyết vụ án.
Trong nhận định của
Toà án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu,
đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Trong phần quyết định
phải ghi rõ các quyết định của Toà án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ
án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải
thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.
Khi tuyên án, mọi
người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của
chủ toạ phiên toà. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét
xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản
án và quyền kháng cáo.
Trong trường hợp có
đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch
lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.
1. Sau khi tuyên án
xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ
ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ
sung phải được thông báo ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc sửa chữa, bổ sung; đồng thời thông báo cho cơ quan, tổ chức khởi kiện và
Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Việc sửa chữa, bổ
sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này phải do Thẩm phán phối hợp với các
Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử vụ án đó thực hiện. Trong
trường hợp Thẩm phán đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán thì Chánh án Toà
án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung đó.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự, cơ quan, tổ chức
khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án.
2. Trong thời hạn
mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương
sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM
Chương XV
TÍNH
CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ
ÁN CẤP SƠ THẨM
Điều 242. Tính chất
của xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà
án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Đương sự, người đại
diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản
án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm
để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
1. Đơn kháng cáo phải
có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ của
người kháng cáo;
c) Kháng cáo phần nào
của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc
kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm
chỉ của người kháng cáo.
2. Đơn kháng cáo phải
được gửi cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo;
trường hợp đơn kháng cáo gửi cho Toà án cấp phúc thẩm thì Toà án đó phải chuyển
cho Toà án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết và gửi kèm hồ sơ vụ
án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn kháng
cáo là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình
là có căn cứ và hợp pháp.
1. Thời hạn kháng cáo
đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án;
đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày
bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
2. Thời hạn kháng cáo
đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ
thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
3. Trong trường hợp
đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu
điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
1. Sau khi nhận được
đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo
theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
đơn kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày
rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ, nếu có để chứng minh cho lý do nộp
đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
Trường hợp đơn kháng
cáo chưa làm đúng quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật này thì Toà án cấp
sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung.
1. Kháng cáo quá thời
hạn quy định tại Điều 245 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận
được đơn kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản
tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng
cứ, nếu có cho Toà án cấp phúc thẩm.
2. Trong thời hạn
mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng
cáo quá hạn. Hội đồng có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận
việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp
nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng
cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm; nếu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc
kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật
này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
1. Sau khi chấp nhận
đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo cho người kháng cáo
biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, nếu
họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án
phí phúc thẩm.
2. Trong thời hạn
mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Toà án
cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này mà người kháng
cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là họ từ bỏ việc kháng
cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
1. Sau khi chấp nhận
đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho
Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc
kháng cáo.
2. Người được thông
báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung
kháng cáo cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ
sơ vụ án.
Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm
đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án
cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
1. Quyết định kháng nghị
của Viện kiểm sát phải bằng văn bản và có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị;
b) Tên của Viện kiểm
sát ra quyết định kháng nghị;
c) Kháng nghị phần
nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc
kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
đ) Họ, tên của người
ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện kiểm sát ra quyết định kháng
nghị.
2. Quyết định kháng
nghị phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng nghị để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy
định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 255 của
Bộ luật này.
3. Kèm theo quyết
định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng
nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp.
1. Thời hạn kháng
nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là mười
lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày
tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng
nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
2. Thời hạn kháng
nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
1. Viện kiểm sát ra
quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đương sự có liên
quan đến kháng nghị.
2. Người được thông
báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung
kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ
sơ vụ án.
1. Những phần của bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành,
trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.
2. Bản án, quyết định
hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án không bị kháng cáo,
kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Toà án cấp sơ thẩm
phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày:
1. Hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm;
2. Người kháng cáo
nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
1. Trước khi bắt đầu
phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ
sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ
sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban
đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.
2. Trước khi bắt đầu
phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo,
Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền rút kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã
rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
3. Việc thay đổi, bổ
sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn
bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho
các đương sự biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ
sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên
toà.
CHUẨN
BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều 257. Thụ lý vụ
án để xét xử phúc thẩm
1. Ngay sau khi nhận
được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án
cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
2. Chánh án Toà án
cấp phúc thẩm hoặc Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành lập
Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà.
1. Trong thời hạn hai
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một
trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính
chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có
thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá một
tháng.
2. Trong thời hạn một
tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà
phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
3. Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người
có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm
ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, hậu quả của việc tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện
theo quy định tại các điều 189, 190 và 191 của Bộ luật này.
1. Toà án cấp phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án trong các trường hợp sau
đây:
a) Trong các trường
hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này;
b) Người kháng cáo rút
toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị;
c) Các trường hợp
khác mà pháp luật có quy định.
2. Trong trường hợp
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều này thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trong thời hạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Chương VIII của Bộ luật
này.
1. Sau khi thụ lý vụ
án để xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát cùng cấp nghiên cứu.
2. Thời hạn nghiên
cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ
sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Toà án.
THỦ
TỤC XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều 263. Phạm vi
xét xử phúc thẩm
Toà án cấp phúc thẩm
chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị
hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
1. Người kháng cáo,
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được
triệu tập tham gia phiên toà. Toà án có thể triệu tập những người tham gia tố
tụng khác tham gia phiên toà nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị.
2. Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm
sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên toà sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc
thẩm, việc tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo
quy định tại Điều 259 và Điều 260 của Bộ luật này.
1. Trường hợp Kiểm
sát viên phải tham gia phiên toà vắng mặt thì phải hoãn phiên toà.
2. Người kháng cáo
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Người kháng
cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ
bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án
có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt.
3. Người tham gia tố
tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn
phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại
các điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 của Bộ luật này.
4. Thời hạn hoãn
phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định
tại Điều 208 của Bộ luật này.
Chuẩn bị khai mạc
phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo
quy định tại các điều 212, 213, 214, 215 và 216 của Bộ luật này.
1. Sau khi kết thúc
thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc
thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng
cáo, kháng nghị.
2. Chủ toạ phiên toà
hỏi về các vấn đề sau đây:
a) Hỏi nguyên đơn có
rút đơn khởi kiện hay không;
b) Hỏi người kháng
cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị hay không;
c) Hỏi các đương sự
có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không.
1. Trước khi mở phiên
toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải
quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng
ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì
chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp
này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên
đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định nếu thời
hiệu khởi kiện vẫn còn.
1. Tại phiên toà phúc
thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và
thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự
thoả thuận của các đương sự.
2. Các đương sự tự
thoả thuận với nhau về việc chịu án phí sơ thẩm; nếu không thoả thuận được với
nhau thì Toà án quyết định theo quy định của pháp luật.
1. Trong trường hợp
có đương sự vẫn giữ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị và các
đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các
đương sự theo thứ tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày về nội dung kháng cáo và
các căn cứ của việc kháng cáo. Người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến. Trong
trường hợp tất cả các đương sự đều kháng cáo thì việc trình bày theo thứ tự
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là nguyên đơn và
nguyên đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là bị
đơn và bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
Trong trường hợp chỉ
có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị
và các căn cứ của việc kháng nghị; trong trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có
kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của
việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và
các căn cứ của việc kháng nghị;
b) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị. Đương sự có quyền bổ
sung ý kiến.
2. Trong trường hợp
đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự
trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị và đề nghị của mình.
3. Tại phiên toà phúc
thẩm, đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ.
1. Thủ tục hỏi những
người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà
phúc thẩm được thực hiện như tại phiên toà sơ thẩm.
2. Việc hỏi phải được
thực hiện đối với những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều
263 của Bộ luật này.
Tranh luận tại phiên
toà phúc thẩm được thực hiện như tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, thứ tự phát
biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định tại Điều 271 của Bộ luật này
và chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã
được hỏi tại phiên toà phúc thẩm.
Việc nghị án, trở lại
việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án
phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm.
Hội đồng xét xử phúc
thẩm có các quyền sau đây:
1. Giữ nguyên bản án
sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Huỷ bản án sơ thẩm
và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án;
4. Huỷ bản án sơ thẩm
và đình chỉ giải quyết vụ án.
Hội đồng xét xử phúc
thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Toà án cấp sơ thẩm quyết định
không đúng pháp luật trong các trường hợp sau đây:
1. Việc chứng minh và
thu thập chứng cứ đã thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định tại Chương VII của
Bộ luật này;
2. Việc chứng minh và
thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc
thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
Hội đồng xét xử phúc
thẩm huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Việc chứng minh và
thu thập chứng cứ không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc
chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ
sung được;
2. Thành phần của Hội
đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng.
Hội đồng xét xử phúc
thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải
quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Điều 192 của Bộ luật này.
1. Hội đồng xét xử
phúc thẩm ra bản án phúc thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
2. Bản án phúc thẩm
gồm có:
a) Phần mở đầu;
b) Phần nội dung vụ
án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định;
c) Phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu
phải ghi rõ tên của Toà án xét xử phúc thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án
và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án,
Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện;
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; người
kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời
gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội
dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định phải tóm tắt nội dung vụ án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị; nhận định của Hội
đồng xét xử phúc thẩm; điểm, khoản và điều của văn bản quy phạm pháp luật mà
Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không
chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
5. Trong phần quyết
định phải ghi rõ các quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm về từng vấn đề
phải giải quyết trong vụ án do có kháng cáo, kháng nghị, về việc phải chịu án
phí sơ thẩm, phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Khi phúc thẩm đối
với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc
thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp
cần phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định.
2. Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Một thành viên của
Hội đồng phúc thẩm xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị trình bày tóm tắt
nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo,
kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
4. Kiểm sát viên phát
biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước
khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định.
5. Khi xem xét quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm có
quyền:
a) Giữ nguyên quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm;
b) Sửa quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm;
c) Huỷ quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để tiếp tục
giải quyết vụ án.
6. Quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải
gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát
cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, người đã kháng cáo, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại
diện hợp pháp của họ.
Trong trường hợp Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài
hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
THỦ
TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
Chương XVIII
THỦ
TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
Điều 282. Tính chất
của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là xét
lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị
vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản
án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Điều 284. Phát hiện
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm
1. Đương sự hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo bằng văn bản cho
những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho những
người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này.
1. Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao.
2. Chánh án Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án nhân dân cấp huyện.
1. Người có thẩm
quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có
quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành án được thực hiện theo quy định của
pháp luật thi hành án dân sự.
2. Người đã kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có
quyết định giám đốc thẩm.
Quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm phải có các nội dung chính sau đây:
1. Số, ngày, tháng,
năm của quyết định kháng nghị;
2. Chức vụ của người
ra quyết định kháng nghị;
3. Số, ngày, tháng,
năm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
4. Quyết định của bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
5. Nhận xét, phân
tích những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị;
6. Căn cứ pháp luật
để quyết định kháng nghị;
7. Quyết định kháng
nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
8. Tên của Toà án có
thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án đó;
9. Đề nghị của người
kháng nghị.
Người có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời
hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
1. Người đã kháng
nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa
hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 288 của Bộ luật này.
2. Người đã kháng
nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở
phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm.
1. Quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho Toà án ra bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung
kháng nghị.
2. Trong trường hợp
Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh kháng
nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải chuyển hồ
sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
3. Trong trường hợp
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án
có thẩm quyền giám đốc thẩm.
1. Uỷ ban Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
2. Toà dân sự, Toà
kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
3. Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà
án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền
của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì
Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
1. Phiên toà giám đốc
thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Khi xét thấy cần
thiết, Toà án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có
liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm.
Trong thời hạn bốn
tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án có thẩm
quyền giám đốc thẩm phải mở phiên toà để giám đốc thẩm vụ án.
Chánh án Toà án phân
công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên toà. Bản thuyết
trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Toà án, nội
dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho các thành viên
Hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên toà giám đốc
thẩm.
1. Sau khi chủ toạ
khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt
nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng
nghị và đề nghị của người kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến
của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
2. Trong trường hợp
có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu tập tham gia phiên
toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng
nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định
kháng nghị.
3. Các thành viên của
Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải
quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ án.
4. Hội đồng giám đốc
thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám đốc
thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán
hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Uỷ ban Thẩm phán Toà
án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết
theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác; nếu
không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu
quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày
ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến
hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên.
1. Hội đồng giám đốc
thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
2. Hội đồng giám đốc
thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung
kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
Hội đồng giám đốc
thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Giữ nguyên bản án,
quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;
3. Huỷ bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
4. Huỷ bản án, quyết
định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.
Hội đồng giám đốc
thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp dưới xét xử đúng pháp
luật, nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị huỷ
bỏ hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ.
Điều 299. Huỷ bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại
hoặc xét xử phúc thẩm lại
Hội đồng giám đốc
thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại trong các trường hợp sau
đây:
1. Việc thu thập
chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định tại
Chương VII của Bộ luật này;
2. Kết luận trong bản
án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có
sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
3. Thành phần của Hội
đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có
vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Hội đồng giám đốc
thẩm quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ
giải quyết vụ án, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều
192 của Bộ luật này.
1. Hội đồng giám đốc
thẩm ra quyết định nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
2. Quyết định giám
đốc thẩm phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
và địa điểm mở phiên toà;
b) Họ, tên các thành
viên Hội đồng giám đốc thẩm. Trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm là Uỷ ban Thẩm
phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
thì ghi họ, tên, chức vụ của chủ toạ phiên toà và số lượng thành viên tham gia
xét xử;
c) Họ, tên Thư ký Toà
án, Kiểm sát viên tham gia phiên toà;
d) Tên vụ án mà Hội
đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm;
đ) Tên, địa chỉ của
các đương sự trong vụ án;
e) Tóm tắt nội dung
vụ án, quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị;
g) Quyết định kháng
nghị, lý do kháng nghị;
h) Nhận định của Hội
đồng giám đốc thẩm trong đó phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không
chấp nhận kháng nghị;
i) Điểm, khoản, điều
của Bộ luật tố tụng dân sự mà Hội đồng giám đốc thẩm căn cứ để ra quyết định;
k) Quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm.
Quyết định giám đốc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định.
Trong thời hạn năm
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết
định giám đốc thẩm cho:
1. Đương sự và những
người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyết định giám đốc thẩm;
2. Toà án ra bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
3. Viện kiểm sát cùng
cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
THỦ
TỤC TÁI THẨM
Điều 304. Tính chất
của tái thẩm
Tái thẩm là xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những
tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,
quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết
định đó.
Bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có
một trong những căn cứ sau đây:
1. Mới phát hiện được
tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá
trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng
minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự
thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận
trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định
hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để
giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
1. Đương sự hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông
báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 307 của
Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo bằng
văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 307 của Bộ luật
này.
1. Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng
nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
3. Người đã kháng
nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình
chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.
Thời hạn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị
biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 305 của
Bộ luật này.
Hội đồng tái thẩm có
các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Huỷ bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này
quy định;
3. Huỷ bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Các quy định khác về
thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại
Bộ luật này.
Phần thứ năm
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
Điều 311. Phạm vi
áp dụng
Toà án áp dụng những
quy định của Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7
Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 của Bộ luật này.
Việc dân sự là việc
cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Toà án công
nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của
mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình
quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
1. Người yêu cầu Toà
án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Toà án có thẩm quyền quy định tại
mục 2 Chương III của Bộ luật này.
2. Đơn yêu cầu phải
có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
viết đơn;
b) Tên Toà án có thẩm
quyền giải quyết đơn;
c) Tên, địa chỉ của
người yêu cầu;
d) Những vấn đề cụ thể
yêu cầu Toà án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Toà án
giải quyết việc dân sự đó;
đ) Tên, địa chỉ của
những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có;
e) Các thông tin khác
mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu;
g) Người yêu cầu là
cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp
pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp.
1. Toà án phải mở
phiên họp công khai để giải quyết việc dân sự.
Sau khi ra quyết định
mở phiên họp giải quyết việc dân sự, Toà án phải gửi ngay quyết định này và hồ
sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải
nghiên cứu trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn
này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp giải quyết việc dân
sự.
2. Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham dự phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì
phải hoãn phiên họp.
3. Người có đơn yêu
cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu
tập của Toà án.
Người có đơn yêu cầu
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên họp. Trường hợp
người có đơn yêu cầu đề nghị giải quyết việc dân sự không có sự tham gia của họ
thì Toà án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ; nếu người có đơn yêu cầu đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này,
quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy
định vẫn được bảo đảm.
4. Người có liên quan
hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Toà án triệu tập tham gia phiên họp.
Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể triệu tập người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Toà án quyết
định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
1. Phiên họp giải
quyết việc dân sự được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Thư ký Toà án báo
cáo về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp;
b) Thẩm phán khai mạc
phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập tham
gia phiên họp và căn cước của họ;
c) Người yêu cầu hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án
giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc
dân sự đó;
d) Người có liên quan
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình về những vấn đề
có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ trong việc giải quyết việc dân sự;
đ) Người làm chứng
trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích
những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn;
e) Xem xét tài liệu,
chứng cứ;
g) Kiểm sát viên phát
biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự;
h) Thẩm phán xem xét,
quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
2. Trong trường hợp
có người vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do
người đó cung cấp hoặc đã khai với Toà án.
1. Quyết định giải
quyết việc dân sự phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
ra quyết định;
b) Tên Toà án ra
quyết định;
c) Họ, tên của Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án;
d) Tên, địa chỉ của
người yêu cầu giải quyết việc dân sự;
đ) Những vấn đề cụ
thể yêu cầu Toà án giải quyết;
e) Tên, địa chỉ của
người có liên quan;
g) Nhận định của Toà
án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu;
h) Căn cứ pháp luật
để giải quyết việc dân sự;
i) Quyết định của Toà
án;
k) Lệ phí phải nộp.
2. Quyết định giải
quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án
có thẩm quyền, người yêu cầu giải quyết việc dân sự và cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định đó trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Người yêu cầu và cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải
quyết việc dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự để yêu cầu
Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ các quyết
định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Bộ luật này.
1. Người yêu cầu và
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải
quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định đó trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày Toà án ra quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 358 và
khoản 1 Điều 372 của Bộ luật này. Trong trường hợp họ không có mặt tại phiên
họp thì thời hạn đó tính từ ngày họ nhận được quyết định giải quyết việc dân sự
hoặc kể từ ngày quyết định đó được thông báo, niêm yết.
2. Viện kiểm sát cùng
cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn bảy
ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 358 và khoản 2 Điều 372 của Bộ luật này.
Thủ tục phúc thẩm
quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị được thực hiện theo
quy định tại Điều 280 của Bộ luật này.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ HOẶC BỊ
HẠN CHẾ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ
Điều 319. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự
1. Người có quyền,
lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn yêu
cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải có kết luận của
cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
4. Kèm theo đơn yêu
cầu Toà án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có chứng
cứ để chứng minh người đó nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác
dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
1. Thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ
lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét
đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo đề nghị của đương sự, Toà án có thể trưng cầu
giám định sức khoẻ, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, khi nhận
được kết luận giám định Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu
cầu.
3. Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết
định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
4. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên
họp xét đơn yêu cầu.
Điều 321. Quyết
định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự
1. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong quyết định
tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Toà án phải quyết định người đại
diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại
diện.
Điều 322. Đơn yêu
cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Khi người bị Toà
án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
không còn ở trong tình trạng đã bị tuyên bố thì chính người đó hoặc người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Toà án
ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án
huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ
luật này.
1. Thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều
320 của Bộ luật này.
2. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU THÔNG BÁO TÌM KIẾM NGƯỜI VẮNG MẶT TẠI NƠI CƯ TRÚ
Điều 324. Đơn yêu
cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Người có quyền,
lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú khi người đó biệt tích trong sáu tháng liền trở lên và đồng thời có
thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó theo
quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có đủ các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có chứng
cứ để chứng minh là người đó biệt tích trong sáu tháng liền trở lên. Trong
trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng
mặt thì phải cung cấp tài liệu về tình hình tài sản của người đó, việc quản lý
tài sản hiện có và danh sách những người thân thích của người đó.
1. Thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú là hai mươi
ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra
quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu thông
báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu
hoặc người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn mười
ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên họp xét
đơn yêu cầu.
1. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi
cư trú.
2. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định chấp nhận đơn yêu cầu và ra
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; trường hợp có yêu cầu Toà án
áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó tại nơi cư trú và được
chấp nhận thì trong quyết định chấp nhận đơn yêu cầu Toà án còn phải quyết định
áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân
sự.
Thông báo tìm kiếm người
vắng mặt tại nơi cư trú phải có các nội dung chính sau đây:
1. Ngày, tháng, năm
ra thông báo;
2. Tên Toà án ra
thông báo;
3. Số và ngày, tháng,
năm của quyết định Toà án chấp nhận đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng
mặt tại nơi cư trú;
4. Tên, địa chỉ của
người yêu cầu Toà án thông báo;
5. Họ, tên và ngày,
tháng, năm sinh hoặc tuổi của người cần tìm kiếm và địa chỉ cư trú của người đó
trước khi biệt tích;
6. Địa chỉ liên hệ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu người cần tìm kiếm biết được thông báo hoặc
người khác có được tin tức về người cần tìm kiếm.
1. Thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú phải được đăng trên báo hàng ngày của trung ương
trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của
trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
2. Chi phí cho việc
đăng, phát thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú do người yêu cầu
chịu.
Quyết định thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 326 của Bộ luật này
đương nhiên hết hiệu lực trong trường hợp người cần tìm kiếm trở về.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH
Điều 330. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người mất tích
1. Người có quyền,
lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất tích theo quy
định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án
tuyên bố một người mất tích phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều
312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt
tích hai năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn
sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các
biện pháp thông báo tìm kiếm. Trong trường hợp trước đó đã có quyết định của
Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao
quyết định đó.
1. Trong thời hạn hai
mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Toà án ra
quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích.
2. Nội dung thông báo
và công bố thông báo được thực hiện theo quy định tại Điều 327 và Điều 328 của
Bộ luật này. Thời hạn thông báo là bốn tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo
lần đầu tiên.
3. Trong thời hạn
công bố thông báo, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Toà
án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn công bố thông báo, Toà án phải mở phiên
họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
2. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố mất tích; trường hợp có
yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích
đó và được chấp nhận thì trong quyết định Toà án còn phải quyết định áp dụng
biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Khi người bị tuyên
bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó
hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định
huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
2. Đơn yêu cầu Toà án
huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải có đủ các nội dung quy định
tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố mất tích đã trở về hoặc
chứng minh xác thực là người đó còn sống.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người mất tích, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
2. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ
quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI LÀ ĐÃ CHẾT
Điều 335. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người là đã chết
1. Người có quyền,
lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết theo
quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án
tuyên bố một người là đã chết phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều
312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thuộc
trường hợp theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết không quá ba mươi ngày, kể từ
ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở
phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu
tuyên bố một người là đã chết nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị
yêu cầu tuyên bố là đã chết trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu
cầu.
3. Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp để
xét đơn yêu cầu.
1. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết.
2. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết;
trong quyết định này, Toà án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả
pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân
sự.
1. Khi một người bị
tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì
người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án ra
quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
2. Đơn yêu cầu Toà án
huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải có đủ các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc
chứng minh xác thực là người đó còn sống.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
2. Toà án có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp
chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết; trong quyết định này, Toà án phải quyết định về hậu quả pháp
lý của việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo quy định của
Bộ luật dân sự.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VIỆC DÂN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Điều 340. Những
việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án
1. Chỉ định, thay đổi
Trọng tài viên.
2. Áp dụng, thay đổi,
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Huỷ quyết định
trọng tài.
4. Các việc dân sự
khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.
Thủ tục giải quyết
các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật
về Trọng tài thương mại Việt Nam .
THỦ
TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA
TOÀ ÁN NƯỚC NGOÀI, QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
Chương XXVI
QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC NGOÀI, QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
Điều 342. Bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài là bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài và bản án, quyết định khác
của Toà án nước ngoài mà theo pháp luật của Việt Nam được coi là bản án, quyết
định dân sự.
2. Quyết định của
Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc
trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thoả thuận lựa chọn
để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương
mại, lao động.
Điều 343. Nguyên
tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Toà án Việt Nam
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Bản án, quyết định
dân sự của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia
nhập điều ước quốc tế về vấn đề này;
b) Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định công nhận và cho thi
hành.
2. Toà án Việt Nam
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của
nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này.
3. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng có thể
được Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở
có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia nhập
điều ước quốc tế về vấn đề đó.
4. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài hoặc quyết định của Trọng tài nước ngoài chỉ được
thi hành tại Việt Nam
sau khi được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
5. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có
đơn yêu cầu không công nhận thì đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
6. Toà án Việt Nam
chỉ xem xét việc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước
ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu không công nhận.
Điều 344. Quyền yêu
cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Người được thi
hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu cá nhân phải thi hành cư
trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính
tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài có tại Việt Nam vào
thời điểm gửi đơn yêu cầu.
2. Đương sự, người có
quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền
gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam .
Đương sự có quyền
kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định của Toà án Việt Nam
công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét
lại theo quy định của Bộ luật này.
Điều 346. Bảo đảm
hiệu lực của quyết định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài
1. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam có hiệu lực pháp luật như bản án, quyết định dân sự của Toà án Việt
Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được Toà án Việt Nam công
nhận thì không có hiệu lực pháp luật tại Việt Nam .
2. Quyết định của
Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực
pháp luật như quyết định của Toà án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được
thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
Trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày ra quyết định, Toà án Việt Nam thông qua Bộ Tư pháp thông
báo kết quả việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài cho Toà án nước ngoài đã ra bản án,
quyết định đó, các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến quyết
định đó; thông báo kết quả xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn
yêu cầu và cá nhân, cơ quan tổ chức khác có liên quan đến quyết định đó của Toà
án Việt Nam.
Điều 348. Bảo đảm
quyền chuyển tiền, tài sản thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước
ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
Nhà nước Việt Nam bảo đảm việc chuyển tiền, tài sản thi hành
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành từ Việt Nam ra nước
ngoài. Việc chuyển tiền, tài sản này được thực hiện theo quy định của pháp luật
Việt Nam .
Điều 349. Lệ phí
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài
Người gửi đơn yêu cầu
Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của pháp luật Việt Nam .
THỦ
TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC NGOÀI
Điều 350. Đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành
1. Đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp
Việt Nam
và phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp
của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy
đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành
là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ
chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi
làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở
chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản
và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người
được thi hành; trường hợp bản án, quyết định của Toà án nước ngoài đã được thi
hành một phần thì người được thi hành phải ghi rõ phần đã được thi hành và phần
còn lại có yêu cầu công nhận và cho thi hành tiếp tại Việt Nam .
3. Đơn yêu cầu bằng
tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công
chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều
ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp bản án,
quyết định của Toà án nước ngoài; văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có
hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt
Nam, trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này;
văn bản xác nhận việc đã gửi cho người phải thi hành bản sao bản án, quyết định
đó. Trường hợp người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó
vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài thì phải có văn bản xác nhận người
đó đã được triệu tập hợp lệ.
2. Các giấy tờ, tài
liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản
dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư
pháp phải chuyển hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 34 và
Điều 35 của Bộ luật này.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, Toà án có
thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án có quyền yêu cầu người gửi đơn, Toà án nước
ngoài đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
Văn bản yêu cầu giải
thích và văn bản trả lời được gửi thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam .
3. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của Toà án Việt Nam yêu cầu giải thích, Bộ
Tư pháp gửi cho người gửi đơn yêu cầu hoặc Toà án nước ngoài văn bản yêu cầu
giải thích đó.
4. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời yêu cầu giải thích, Bộ Tư pháp gửi
cho Toà án Việt Nam đã yêu cầu văn bản trả lời đó.
1. Trong thời hạn bốn
tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Toà án ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu, nếu người gửi đơn rút đơn yêu cầu hoặc người phải thi hành đã tự
nguyện thi hành hoặc người phải thi hành là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ
của người đó không được thừa kế hoặc nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ
chức đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó đã được
giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong trường hợp không đúng thẩm
quyền hoặc không xác định được địa chỉ của người phải thi hành hoặc nơi có tài
sản liên quan đến việc thi hành;
c) Mở phiên họp xét
đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà
án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 353 của Bộ luật này thì
thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở
phiên họp trong thời hạn một tháng, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp xét
đơn yêu cầu.
Toà án chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày trước ngày
mở phiên họp; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án
để mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
1. Việc xét đơn yêu
cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm
phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được
tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp
của họ; nếu họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên
họp.
Việc xét đơn yêu cầu
vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ
có đơn yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét
xử lại vụ án mà chỉ kiểm tra, đối chiếu bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu với các quy định của Bộ
luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để quyết định.
5. Sau khi xem xét
đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người được triệu
tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra
quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc quyết định không công nhận
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài.
Điều 356. Những bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam
1. Bản án, quyết định
dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà
án đã ra bản án, quyết định đó.
2. Người phải thi
hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên toà của
Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ.
3. Vụ án thuộc thẩm
quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam.
4. Về cùng vụ án này
đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam
hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ
quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải
quyết vụ án đó.
5. Đã hết thời hiệu
thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định dân sự
đó hoặc theo pháp luật Việt Nam .
6. Việc công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam .
Ngay sau khi ra quyết
định quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này, Toà án gửi cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; nếu đương sự ở nước ngoài thì
quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều 354 và Điều 355
của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
quyết định đó; trường hợp đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không có mặt
tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận
được quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện
hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng
cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà
án quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị
của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
1. Toà án nhân dân
tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ; trường hợp cần phải yêu
cầu giải thích theo quy định tại Điều 353 của Bộ luật này thì thời hạn này được
kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội
đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba Thẩm phán, trong đó một
Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao.
Phiên họp xét lại
quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến hành như phiên họp xét đơn yêu
cầu quy định tại Điều 355 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền
giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh
hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp đương sự rút
kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 354 của Bộ luật này.
Quyết định của Toà án
nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
THỦ
TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU KHÔNG CÔNG NHẬN BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC
NGOÀI KHÔNG CÓ YÊU CẦU THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
Điều 360. Thời hạn
gửi đơn yêu cầu không công nhận
1. Trong thời hạn ba
mươi ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài
mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, đương sự, người có quyền, lợi ích
hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu
Toà án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự đó đến Bộ Tư pháp
Việt Nam.
2. Trong trường hợp
người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
mà không thể gửi đơn đúng thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này thì thời gian
có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn
gửi đơn.
Việc khôi phục thời
hiệu do Chánh án Toà án thụ lý đơn xét và quyết định.
1. Đơn yêu cầu không
công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài phải có các nội dung
chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người làm đơn; nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi
đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Yêu cầu của người
làm đơn.
2. Kèm theo đơn yêu
cầu phải có bản sao hợp pháp bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và
các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh yêu cầu không công nhận của mình
là có căn cứ.
3. Đơn yêu cầu và các
giấy tờ, tài liệu kèm theo bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản
dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
4. Việc chuyển đơn
yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo đến Toà án có thẩm quyền được thực
hiện theo quy định tại Điều 352 của Bộ luật này.
1. Việc chuẩn bị xét
đơn yêu cầu và việc xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài được tiến hành theo quy định tại Điều 354 và Điều 355 của
Bộ luật này.
2. Hội đồng xét đơn
yêu cầu có quyền ra một trong các quyết định sau đây:
a) Không công nhận
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài;
b) Bác đơn yêu cầu
không công nhận.
3. Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam không được
công nhận trong các trường hợp quy định tại Điều 356 của Bộ luật này.
Việc gửi quyết định
của Toà án; việc kháng cáo, kháng nghị và xét kháng cáo, kháng nghị được thực
hiện theo quy định tại các điều 357, 358 và 359 của Bộ luật này.
THỦ
TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG
TÀI NƯỚC NGOÀI
Điều 364. Đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài
1. Đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải có
các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp
tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì
phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành
là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ
chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi
làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở
chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản
và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người
được thi hành.
2. Đơn yêu cầu bằng
tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng,
chứng thực hợp pháp.
1. Gửi kèm theo đơn
yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều
ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp quyết
định của Trọng tài nước ngoài; bản sao hợp pháp thoả thuận trọng tài của các
bên về việc giải quyết tranh chấp có thể hoặc đã phát sinh giữa họ với nhau
theo thể thức trọng tài mà pháp luật của nước hữu quan quy định có thể giải
quyết được theo thể thức đó.
Thoả thuận trọng tài
có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thoả thuận
riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp.
2. Giấy tờ, tài liệu
gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì phải được gửi kèm theo bản
dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư
pháp chuyển hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 34 và Điều 35
của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
Bộ Tư pháp đã chuyển hồ sơ cho Toà án mà sau đó lại nhận được thông báo của cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài cho biết đang xem xét hoặc đã huỷ bỏ, đình
chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài thì Bộ Tư pháp thông báo ngay
bằng văn bản cho Toà án biết.
1. Trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, Toà án có
thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành
và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Toà án có quyền
yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu giải thích những điểm chưa
rõ trong hồ sơ.
1. Trong thời hạn hai
tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Toà án ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Tạm đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư
pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét quyết định của
Trọng tài nước ngoài;
b) Đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành rút đơn yêu cầu hoặc
cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành đã tự nguyện thi hành; cơ quan, tổ chức
phải thi hành đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức
đó đã được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân phải
thi hành đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó không được thừa kế;
c) Đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về
việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài;
d) Đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong trường hợp không đúng thẩm
quyền hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành không có trụ sở chính tại Việt Nam,
cá nhân phải thi hành không cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc không xác định
được địa điểm nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam;
đ) Mở phiên họp xét
đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà
án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì
thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở
phiên họp xét đơn trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định mở
phiên họp xét đơn yêu cầu. Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp
nghiên cứu trong thời hạn mười ngày, trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn này,
Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp xét đơn yêu
cầu.
1. Việc xét đơn yêu
cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm
phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được
tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu
vẫn được tiến hành, nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ
yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt họ hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét
xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài giải quyết mà chỉ kiểm tra,
đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo
với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết
định.
5. Sau khi xem xét
đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người được triệu
tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra
quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài hoặc quyết định không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài.
1. Quyết định của
Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các
trường hợp sau đây:
a) Các bên ký kết
thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật
được áp dụng cho mỗi bên;
b) Thoả thuận trọng
tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp
dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên
không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó;
c) Cá nhân, cơ quan,
tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ
định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước
ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố
tụng của mình;
d) Quyết định của
Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu
giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thoả thuận trọng tài. Trong
trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu và phần
quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài nước ngoài thì
phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam;
đ) Thành phần của
Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài
không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết
định của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả thuận trọng tài không quy
định về các vấn đề đó;
e) Quyết định của
Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
g) Quyết định của
Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi quyết định đã được
tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Quyết định của
Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam , nếu Toà án
Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật
Việt Nam ,
vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam .
Ngay sau khi ra quyết
định quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này, Toà án gửi cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; nếu đương sự ở nước ngoài thì
quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
1. Trong thời hạn
mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều 368 và Điều 369
của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
quyết định đó; trường hợp đương sự không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu
thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Đơn kháng
cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện
hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng
cáo.
2. Viện kiểm sát cùng
cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà
án quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là
ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
1. Toà án nhân dân
tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ; trường hợp cần phải yêu
cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn
này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội
đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba Thẩm phán, trong đó có một
Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao. Phiên họp xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến
hành như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 369 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền
giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh,
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp
đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ quy định
tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 368 của Bộ luật này.
Quyết định của Toà án
nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
1. Trong trường hợp
nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài đang xem xét việc huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã có quyết định thi hành tại Việt Nam thì Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định của
Trọng tài nước ngoài và gửi quyết định đó cho Toà án đã ra quyết định công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp bảo đảm cần thiết cho việc tiếp tục
thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu có yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức được thi hành.
2. Ngay sau khi nhận
được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước
ngoài, Toà án Việt Nam đã ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngoài ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó và gửi
quyết định này cho cơ quan thi hành án.
Ngay sau khi nhận
được quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định
đình chỉ việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài.
THI
HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN
Chương XXX
QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Điều 375. Những bản
án, quyết định của Toà án được thi hành
1. Những bản án,
quyết định dân sự của Toà án được thi hành là những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Bản án, quyết định
hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định
của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết
định có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam .
2. Những bản án,
quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định
về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả
lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tổn thất tinh thần của công dân;
b) Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bản án, quyết định
của Toà án được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây:
1. Bản án, quyết định
được thi hành quy định tại Điều 375 của Bộ luật này;
2. Quyết định thi
hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
1. Trường hợp các bên
đương sự không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án, người phải thi
hành án căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án có quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
2. Người yêu cầu thi
hành bản án, quyết định của Toà án phải có đơn yêu cầu thi hành án hoặc trực
tiếp đến cơ quan thi hành án nêu rõ nội dung yêu cầu và các thông tin liên quan
đến việc thi hành án kèm theo bản án hoặc quyết định có yêu cầu được thi hành.
Điều 378. Trách
nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thi hành bản án, quyết định của
Toà án
1. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện đầy
đủ yêu cầu của Chấp hành viên trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà
án.
2. Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ
đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành bản án,
quyết định của Toà án ở địa phương mình theo quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự.
Tư lệnh quân khu và
tương đương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức
phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án trong quân khu và tương
đương.
3. Cơ quan công an có
nhiệm vụ giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối
việc thi hành bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp cần phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án thì cơ quan công an và các cơ quan hữu quan có
nhiệm vụ phối hợp thực hiện theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
hoặc Chấp hành viên.
Viện kiểm sát nhân
dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của đương sự, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhằm bảo đảm
việc thi hành bản án, quyết định của Toà án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.
THỦ
TỤC THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Điều 380. Cấp bản
án, quyết định của Toà án
Khi bản án, quyết
định của Toà án thuộc trường hợp được thi hành theo quy định tại Điều 375 của
Bộ luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được
thi hành án và người phải thi hành án bản án hoặc quyết định đó có ghi để thi
hành".
Toà án phải giải
thích cho người được thi hành, người phải thi hành bản án, quyết định về quyền
yêu cầu, thời hạn yêu cầu thi hành án và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự.
1. Đối với những bản
án, quyết định được thi hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 375 của Bộ
luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án,
quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó.
Đối với các quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định phải
chuyển giao ngay quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp.
2. Đối với bản án,
quyết định không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì Toà án đã
tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi
hành án cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn ba mươi ngày, kể
từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
3. Khi chuyển giao
bản án, quyết định, Toà án phải gửi kèm theo biên bản kê biên, tạm giữ tang
vật, tài sản, các tài liệu khác có liên quan, nếu có.
1. Người được thi
hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc thi hành bản án, quyết định của Toà án và cơ quan thi hành án có quyền yêu
cầu bằng văn bản Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ
trong bản án, quyết định để thi hành.
Trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Toà án phải có văn bản giải
thích và gửi cho người có yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
2. Thẩm phán ra quyết
định hoặc Thẩm phán là chủ toạ phiên toà có trách nhiệm giải thích bản án,
quyết định của Toà án. Trong trường hợp họ không còn là Thẩm phán của Toà án
thì Chánh án Toà án đó có trách nhiệm giải thích bản án, quyết định của Toà án.
3. Việc giải thích
bản án, quyết định của Toà án phải căn cứ vào biên bản phiên toà và biên bản
nghị án.
1. Trong thời hạn ba
năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, người được
thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có
thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án, quyết định đó.
Trong trường hợp thời
hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì
thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn; đối với bản án, quyết định
của Toà án thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm được áp dụng cho từng định
kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Trong trường hợp
người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự
kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian
có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng đó không tính vào thời hiệu
yêu cầu thi hành án; đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo
quy định tại Điều 286 và Điều 307 của Bộ luật này thì thời gian hoãn, tạm đình
chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi
hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn, tạm đình chỉ thi hành án.
XỬ
LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ; KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
Chương XXXII
XỬ
LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 384. Biện pháp
xử lý đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập đã được Toà án triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn không có mặt tại Toà án hoặc không có mặt tại
phiên toà không có lý do chính đáng thì tuỳ từng trường hợp có thể bị Toà án
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Điều 385. Biện pháp
xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người
tiến hành tố tụng
1. Người nào có một
trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị Toà án quyết
định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật:
a) Làm giả, huỷ hoại
những chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Toà án;
b) Khai báo gian dối
hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật;
c) Từ chối khai báo,
từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu;
d) Lừa dối, đe doạ,
mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc
người khác ra làm chứng gian dối;
đ) Lừa dối, đe doạ,
mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc
buộc người giám định kết luận sai với sự thật khách quan;
e) Lừa dối, đe doạ,
mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch thực hiện nhiệm vụ
hoặc buộc người phiên dịch dịch không trung thực, không khách quan, không đúng
nghĩa khi dịch;
g) Xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người tiến hành tố tụng; đe doạ, sử dụng vũ lực hoặc có
hành vi khác cản trở người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp xác minh,
thu thập chứng cứ do Bộ luật này quy định;
h) Các hành vi vi
phạm khác mà pháp luật có quy định.
2. Cơ quan công an có
nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án tạm giữ hành chính người có hành vi vi
phạm.
1. Người làm chứng đã
được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không đến Toà án hoặc không có mặt tại
phiên toà mà không có lý do chính đáng và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại
cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc xét xử vụ án thì Toà án có quyền ra
quyết định dẫn giải, cảnh cáo, phạt tiền.
2. Quyết định dẫn
giải người làm chứng phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ, tên,
chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của
người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt.
3. Cơ quan công an có
nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án dẫn giải người làm chứng. Người thi
hành quyết định dẫn giải người làm chứng phải đọc, giải thích quyết định dẫn
giải cho người bị dẫn giải biết và lập biên bản về việc dẫn giải.
1. Người có hành vi
vi phạm nội quy phiên toà thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị chủ toạ
phiên toà quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc
tạm giữ hành chính.
2. Cơ quan công an có
nhiệm vụ bảo vệ phiên toà thi hành quyết định của chủ toạ phiên toà về việc
buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính người gây rối trật tự tại
phiên toà.
3. Trong trường hợp
người vi phạm nội quy phiên toà đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thì Toà án có quyền khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật về hình
sự.
1. Trong trường hợp
Toà án khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 385 và khoản 3 Điều
387 của Bộ luật này thì trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi
tố, Toà án phải chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án
và tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội.
2. Viện kiểm sát phải
xem xét việc khởi tố, truy tố bị can trong thời hạn do Bộ luật tố tụng hình sự
quy định; nếu Viện kiểm sát không khởi tố, truy tố bị can thì Viện kiểm sát
phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc không khởi tố, truy tố bị can
cho Toà án đã ra quyết định khởi tố vụ án biết.
Điều 389. Biện pháp
xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Toà án về việc
cung cấp chứng cứ cho Toà án
1. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức không thi hành quyết định của Toà án về việc cung cấp chứng cứ mà cá
nhân, cơ quan, tổ chức đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Toà án quyết định
phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cưỡng chế thi hành.
2. Cá nhân, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1 Điều này tuỳ theo mức độ vi phạm
mà có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
Thủ tục, thẩm quyền
xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự do
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 391. Quyết
định, hành vi trong tố tụng dân sự có thể bị khiếu nại
1. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự của cơ
quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Đối với bản án,
quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án và các quyết
định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng dân sự ban hành, nếu có kháng cáo,
kháng nghị, khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định của Chương
này mà được giải quyết theo quy định của các chương tương ứng của Bộ luật này.
1. Người khiếu nại có
các quyền sau đây:
a) Tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp pháp khiếu nại;
b) Khiếu nại trong
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án;
c) Rút khiếu nại
trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại;
d) Được nhận văn bản
trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết
khiếu nại;
đ) Được khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
2. Người khiếu nại có
các nghĩa vụ sau đây:
a) Khiếu nại đến đúng
người có thẩm quyền giải quyết;
b) Trình bày trung
thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin,
tài liệu đó;
c) Chấp hành nghiêm
chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Người bị khiếu nại
có các quyền sau đây:
a) Đưa ra bằng chứng
về tính hợp pháp của quyết định, hành vi trong tố tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi trong tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu nại
có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về
quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự bị khiếu nại; cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm
chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật;
c) Bồi thường thiệt
hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trong tố tụng dân
sự trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Thời hiệu khiếu nại
là mười lăm ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết
định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp có
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực
hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn quy định tại Điều này thì thời
gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời
hiệu khiếu nại.
Điều 395. Thẩm
quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng
và Viện trưởng Viện kiểm sát
Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng do Viện trưởng Viện kiểm sát
giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 396. Thẩm
quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án
do Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có
quyền khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày kể
từ ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của Chánh án Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên
trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Quyết định giải quyết
khiếu nại của Chánh án Toà án phải được gửi cho người khiếu nại và Viện kiểm
sát cùng cấp.
Khiếu nại về hành vi
trong tố tụng dân sự của người giám định do người đứng đầu tổ chức giám định
trực tiếp quản lý người giám định giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người
khiếu nại có quyền khiếu nại với người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực
tiếp của tổ chức giám định. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được
khiếu nại, người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp là
quyết định cuối cùng.
Công dân có quyền tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật
của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan,
tổ chức.
1. Người tố cáo có
các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực
tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật
họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được thông
báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có
nghĩa vụ sau đây:
a) Trình bày trung
thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ, tên,
địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
1. Người bị tố cáo
các có quyền sau đây:
a) Được thông báo về
nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng
để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; được phục hồi danh dự, được bồi thường
thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2. Người bị tố cáo có
các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về hành
vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm
chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt
hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do hành vi tố tụng dân sự trái pháp luật
của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
1. Tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm
quyền nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Trong trường hợp
người bị tố cáo là Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát thì Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.
Thời hạn giải quyết
tố cáo là không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp
thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi ngày.
2. Tố cáo về hành vi
vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự.
Thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của Chương này và các quy định
khác của pháp luật về khiếu nại, tố cáo không trái với quy định của Chương này.
1. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi
phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo
đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2. Người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong
việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 404. Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
dân sự
Viện kiểm sát nhân
dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu, kiến nghị đối với Toà án cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng
pháp luật.
THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chương XXXIV
QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Điều 405. Nguyên
tắc áp dụng
1. Toà án áp dụng các
quy định tại Chương XXXIV và Chương XXXV của Bộ luật này để giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Trường hợp trong các chương này không có quy
định thì được áp dụng các quy định khác có liên quan của Bộ luật này để giải
quyết.
2. Vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa
các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
1. Công dân nước
ngoài, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau
đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài) có quyền khởi kiện đến
Toà án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm
phạm hoặc có tranh chấp.
2. Khi tham gia tố
tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền, nghĩa vụ tố tụng
như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam .
3. Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để
hạn chế quyền tố tụng dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ
chức nước ngoài mà Toà án của nước đó đã hạn chế quyền tố tụng đối với công
dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam .
Điều 407. Năng lực
pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của công dân nước
ngoài, người không quốc tịch
1. Năng lực pháp luật
tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của công dân nước ngoài,
người không quốc tịch được xác định như sau:
a) Theo pháp luật của
nước mà công dân đó có quốc tịch; trong trường hợp công dân có quốc tịch Việt
Nam và quốc tịch nước ngoài thì theo pháp luật Việt Nam; trong trường hợp công
dân có nhiều quốc tịch của nhiều nước ngoài khác nhau thì theo pháp luật của
nước nơi công dân đó sinh sống, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định
khác;
b) Theo pháp luật
Việt Nam , nếu công dân nước
ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam ;
c) Theo pháp luật của
nước nơi người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài;
d) Theo pháp luật
Việt Nam , nếu hành vi tố
tụng dân sự được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam .
2. Công dân nước
ngoài, người không quốc tịch có thể được công nhận có năng lực hành vi tố tụng
dân sự trên lãnh thổ Việt Nam, nếu theo quy định của pháp luật nước ngoài thì
họ không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nhưng theo quy định của pháp luật
Việt Nam thì họ có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Điều 408. Năng lực
pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế trong
tố tụng dân sự
1. Năng lực pháp luật
tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước nơi cơ quan, tổ chức đó được thành lập, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định
khác.
2. Năng lực pháp luật
tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế là
căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức quốc tế hoặc điều
ước quốc tế đã được ký kết với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam .
Đương sự là cá nhân,
cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam có quyền nhờ
luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình theo quy định của pháp luật
Việt Nam .
THẨM
QUYỀN CỦA TOÀ ÁN VIỆT NAM
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Điều 410. Quy định
chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài
1. Thẩm quyền của Toà
án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định
theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ trường hợp Chương này có quy
định khác.
2. Toà án Việt Nam
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau
đây:
a) Bị đơn là cơ quan,
tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý,
chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam;
b) Bị đơn là công dân
nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt
Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Nguyên đơn là công
dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại
Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ;
d) Vụ việc dân sự về
quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật Việt Nam hoặc xảy ra
trên lãnh thổ Việt Nam ,
nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài;
đ) Vụ việc dân sự về
quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân,
cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam;
e) Tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên
lãnh thổ Việt Nam ;
g) Vụ việc ly hôn mà
nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam .
1. Những vụ án dân sự
có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Toà án
Việt Nam:
a) Vụ án dân sự có
liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam ;
b) Tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh
tại Việt Nam ;
c) Vụ án ly hôn giữa
công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả
hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam.
2. Những việc dân sự
có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Toà án
Việt Nam:
a) Xác định một sự
kiện pháp lý, nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam ;
b) Tuyên bố công dân
nước ngoài, người không quốc tịch bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng
lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam và việc tuyên bố
đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Tuyên bố công dân
nước ngoài, người không quốc tịch mất tích, đã chết nếu họ có mặt ở Việt Nam
tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là căn cứ để tuyên bố một người
mất tích, đã chết và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền,
nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
d) yêu cầu Toà án
Việt Nam tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó có
liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
đ) Công nhận tài sản
có trên lãnh thổ Việt Nam là
vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với bất động sản
vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam .
Vụ việc dân sự đã
được một Toà án Việt Nam thụ lý giải quyết theo quy định về thẩm quyền do Bộ
luật này quy định thì phải được Toà án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá
trình giải quyết có sự thay đổi quốc tịch, nơi cư trú, địa chỉ của các đương sự
hoặc có tình tiết mới làm cho vụ việc dân sự đó thuộc thẩm quyền của Toà án
khác của Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài.
Điều 413. Trả lại
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong trường
hợp đã có Toà án nước ngoài giải quyết
1. Toà án Việt Nam
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án nước
ngoài giải quyết vụ việc dân sự đó và nước có Toà án ra bản án, quyết định dân
sự đó và Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế quy định việc công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự.
2. Toà án Việt Nam
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài nếu có Toà án nước ngoài đã thụ lý vụ việc dân sự đó và bản
án, quyết định của Toà án nước ngoài về vụ việc dân sự đó được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam.
TƯƠNG
TRỢ TƯ PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 414. Nguyên
tắc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự
1. Việc tương trợ tư
pháp trong tố tụng dân sự giữa Toà án Việt Nam và Toà án nước ngoài được thực
hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp
với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập, phù hợp với pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài chưa ký kết hoặc gia nhập điều
ước quốc tế có quy định về tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự thì việc
tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự có thể được Toà án Việt Nam chấp nhận
trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, pháp
luật quốc tế và tập quán quốc tế.
1. Toà án Việt Nam uỷ
thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án
nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có
lại.
2. Toà án Việt Nam
không chấp nhận thực hiện việc uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài trong các
trường hợp sau đây:
a) Việc thực hiện uỷ
thác tư pháp xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam
hoặc đe doạ đến an ninh của Việt Nam ;
b) Việc thực hiện uỷ
thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của Toà án Việt Nam.
1. Việc Toà án Việt
Nam uỷ thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc Toà án nước ngoài uỷ thác tư
pháp cho Toà án Việt Nam phải được lập thành văn bản và gửi đến cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập hoặc theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam nhận được văn bản uỷ thác tư pháp phải chuyển ngay cho Toà
án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nhận văn bản uỷ thác của
Toà án Việt Nam.
1. Văn bản uỷ thác tư
pháp phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm
lập văn bản uỷ thác tư pháp;
b) Tên, địa chỉ của
Toà án uỷ thác tư pháp;
c) Tên, địa chỉ của
Toà án thực hiện uỷ thác tư pháp;
d) Họ, tên, địa chỉ
của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức có liên quan đến uỷ thác tư
pháp;
đ) Nội dung công việc
uỷ thác;
e) Yêu cầu của Toà án
uỷ thác.
2. Gửi kèm theo văn
bản uỷ thác là giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện uỷ thác, nếu có.
1. Giấy tờ, tài liệu
do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của
pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được Toà án Việt Nam công
nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
2. Giấy tờ, tài liệu
lập bằng tiếng nước ngoài phải được gửi cho Toà án Việt Nam kèm theo bản dịch
ra tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Bộ luật này đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông
qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH Nguyễn Văn An |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét