Pages

Giới thiệu Bộ Luật dân sự 2005

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

Bộ luật Dân sự năm 1995 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996) được thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá IX. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn các quan hệ xã hội là các giao lưu dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự (dưới đây viết tắt là BLDS) đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng.

Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, BLDS cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập như: BLDS là luật chung trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng theo nguyên tắc tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm, nhưng thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật của nước ta cho thấy nhiều văn bản pháp luật đều khoanh vùng áp dụng của các văn bản đó nên hiệu lực áp dụng của BLDS đã bị hạn chế rất nhiều; một số quy định trong BLDS không còn phù hợp với thực tế; có những quy định không rõ ràng hoặc không đầy đủ, quy định quá chung; trong BLDS có những quy định thuộc quan hệ hành chính; nhiều luật mới có nội dung liên quan đên BLDS được ban hành nhưng BLDS chưa được điều chỉnh cho phù hợp dẫn đến sự mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống pháp luật; trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, BLDS còn có những quy định chưa tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế.
Vì vậy, việc xây dựng Bộ luật Dân sự mới là cần thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay và trong tương lai.
Bộ luật Dân sự năm 2005 được thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Bộ luật quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
II. CÁC QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Việc xây dựng BLDS năm  2005 đã quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
1.     Quán triệt và kịp thời thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, đồng thời cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 (đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 tháng 12/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều).
2.     Xây dựng BLDS theo hướng BLDS là luật chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể.
3.     Hạn chế sự can thiệp mang tính hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự; tôn trọng và phát huy sự tự thoả thuận, tự quyết định của các chủ thể.
4.     Kế thừa và phát triển các quy định đã đi vào cuộc sống, đồng thời tiếp tục pháp điển hoá pháp luật dân sự để không phải ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
5.     Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Nhà nước ta.
III. CƠ CẤU CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Bộ luật Dân sự năm 2005 gồm 7 phần, 36 chương, 777 điều.
1.     Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLDS năm 2005 gồm 9 chương (từ Chương I đến Chương IX), 162 điều, quy định về nhiệm vụ và hiệu lực của BLDS, những nguyên tắc cơ bản, địa vị pháp lý của các chủ thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác, các vấn đề về giao dịch dân sự, đại diện, thời hạn và thời hiệu.
2.     Phần thứ hai “Tài sản và quyền sở hữu” gồm 7 chương (từ Chương X đến Chương XVI) với 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) quy định về nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, các loại tài sản, nội dung quyền sở hữu, các hình thức sở hữu, xác lập và chấm dứt quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu, những quy định khác về quyền sở hữu.
3.     Phần thứ ba “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự” gồm 5 chương (từ Chương XVII đến Chương XXI), 351 điều (từ Điều 280 đến Điều 630), quy định về nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự, hợp đồng dân sự; thực hiện công việc không có uỷ quyền, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
4.     Phần thứ tư “Thừa kế” gồm 4 chương (từ Chương XXII đến Chương XXV), 57 điều (từ Điều 631 đến Điều 687). Trong Phần này có những quy định chung về thừa kế; thừa kế theo di chúc; thừa kế theo pháp luật; thanh toán và phân chia di sản.
5.     Phần thứ năm “Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất” gồm 8 chương (từ Chương XXVI đến Chương XXXIII), 48 điều (từ Điều 688 đến Điều 735) quy định về các hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại, thế chấp, tặng cho quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sự dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất.
6.     Phần thứ sáu “Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ” gồm 3 chương (từ Chương XXXIV đến Chương XXXVI), 22 điều (từ Điều 736 đến Điều 749), quy định về quyền tác giả (như đối tượng, nội dung, thời điểm phát sinh quyền tác giả…) và quyền liên quan đến quyền tác giả (đối tượng liên quan đến quyền tác giả, chủ sở hữu và nội dung quyền đối với cuộc biểu diễn, cuộc phát sóng…); quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới; chuyển giao công nghệ.
7.     Phần thứ bảy “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” gồm 20 điều (từ Điều 758 đến Điều 777).

IV. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Các quy định tại Điều 1 của BLDS năm 2005 đã thể hiện được BLDS là luật chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể. Quan hệ dân sự, theo quy định của BLDS năm 2005, được hiểu rộng, bao gồm cả các quan hệ hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Như vậy, BLDS năm 2005 quy định những vấn đề chung nhất, còn các luật chuyên ngành khác về hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động chỉ quy định những vấn đề đặc thù trong lĩnh vực đó. Trong trường hợp các luật trong các lĩnh vực đó không có các điều luật cụ thể để áp dụng thì áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 phù hợp để giải quyết.
Đây là sự bổ sung cần thiết trong việc hoàn thiện pháp luật của nước ta, vì quy định này bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
2. Những nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2005
Một điểm mới của BLDS năm 2005 là khẳng định nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận (Điều 4). Nếu như Điều 7 của BLDS năm 1995 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm” thì Điều 4 của BLDS năm 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội“. Đây là sửa đổi rất quan trọng, vì quy định này cho phép các chủ thể trong quan hệ dân sự “được làm những gì mà pháp luật không cấm” thay vì “được làm những gì phù hợp với quy định của pháp luật”.
Những nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 1995 tiếp tục được khẳng định trong BLDS năm 2005 và được sắp xếp lại cho phù hợp hơn.
3. Quy định về bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức.
Nhìn chung trong BLDS năm 2005 quy định “tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” được giữ nguyên như trong BLDS năm 1995. Tuy nhiên, để bảo vệ triệt để quyền dân sự của cá nhân, tổ chức, trong BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm quy định: khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ. Bên cạnh đó, khi các chủ thể có quyền dân sự bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ như: buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại. Mặt khác, vấn đề “phạt vi phạm” trước đây được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 12 BLDS  năm 1995 với tư cách là một trong những phương thức bảo vệ quyền dân sự nay đã được đưa ra khỏi Điều 9 của BLDS năm 2005. Vấn đề phạt vi phạm này được quy định bổ sung tại Khoản 7, Điều 402 BLDS năm 2005, cho phép các bên có thể thoả thuận về phạt vi phạm với tư cách là một trong các nội dung của hợp đồng dân sự.
Để tăng cường hơn nữa việc bảo vệ các quyền dân sự của các bên trong quan hệ dân sự, BLDS năm 2005 đã có quy định mới bổ sung thêm vào Điều 12 “không ai được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự”. Như vậy, việc dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực không chỉ bị nghiêm cấm trong giải quyết các tranh chấp dân sự như đã quy định trước đây trong BLDS năm 1995, mà BLDS năm 2005 đã bổ sung quy định nhằm nghiêm cấm việc dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay từ khi các bên tham gia quan hệ dân sự.
4. Về quyền nhân thân
4.1 Đăng ký hộ tịch là quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công dân. Đây là quan hệ hành chính, do đó các quy định về đăng ký hộ tịch đã được đưa ra khỏi BLDS năm 2005. Các vấn đề cụ thể về đăng ký hộ tịch do các văn bản pháp luật về hộ tịch điều chỉnh. BLDS năm 2005 chỉ quy định một số quyền về hộ tịch dưới góc độ là quyền nhân thân của cá nhân và đưa vào quy định tại Mục 2 về quyền nhân thân của cá nhân, đó là quyền được khai sinh (Điều 29) và quyền được khai tử (Điều 30).
4.2 Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân là một vấn đề nhạy cảm, rất phức tạp trong cuộc sống. Để tránh việc sử dụng tuỳ tiện hình ảnh của cá nhân đã và đang xảy ra trong thời gian qua, cần có văn bản quy phạm pháp luật riêng để quy định những trường hợp cụ thể. Vì vậy BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm một số quy định vào Khoản 2 , Điều 31 như sau:
“Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”.
Ngoài ra, để tạo cơ sở pháp lý cho việc quy định cụ thể hơn về việc sử dụng hình ảnh của cá nhân, tại Điều 31 BLDS năm 2005 còn bổ sung thêm Khoản 3 hoàn toàn mới so với BLDS năm 1995 là:
“Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”.
4.3 Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể.
Trong thời gian gần đây, yêu cầu của việc giải phẫu tử thi trong ngành y tế là rất lớn và rất cần thiết nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu, chữa bệnh. Theo quy định của BLDS năm 1995 thì trên thực tế rất ít trường hợp sau khi chết, người nhà của người quá cố cho phép mổ tử thi, vì việc mổ tử thi là vấn đề nhạy cảm và thuộc về tâm linh của người Á đông, nên đối với việc mổ tử thi cần phải được sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ của người quá cố. Để khắc phục những bất cập nêu trên, tại Khoản 4, Điều 32 BLDS năm 2005 đã quy định các trường hợp cụ thể được phép giải phẫu tử thi nhằm đảm bảo tính khả thi trong thực tế cuộc sống hiện nay:
“Việc mổ tử thi được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của người quá cố trước khi người đó chết;
b) Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ khi không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết;
c) Theo quyết định của tổ chức y tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết”.
Ngoài những quy định về quyền nhân thân trong BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm một số quyền nhân thân, đó là  quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33); quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34); quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35); quyền xác định lại giới tính (Điều 36) dưới góc độ là các quyền dân sự của cá nhân. Đây là những vấn đề mới mà trong thực tiễn đặt ra và yêu cầu giải quyết về mặt pháp lý. Tuy nhiên, những vấn đề này được quy định trong BLDS  năm 2005 chỉ mang tính nguyên tắc, dưới giác độ là các quyền dân sự; còn các quy định cụ thể sẽ do các văn bản riêng điều chỉnh.
4.4 Quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và quyền nhận bộ phận cơ thể người.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay là để duy trì sự sống, rất nhiều người bệnh cần phải thay hay ghép một số bộ phận cơ thể (ví dụ như thay thận, ghép gan …), Điều 33 và Điều 34 của BLDS  năm 2005 quy định: cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học để tránh tình trạng việc cá nhân sử dụng các bộ phận cơ thể của mình vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, BLDS năm 2005 chỉ quy định mang tính nguyên tắc vấn đề này, còn việc hiến và sử dụng xác, các bộ phận cơ thể của người sống cũng như của người chết, quyền nhận bộ phận cơ thể người do các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể, chi tiết hơn.
Đồng thời, với các quy định bổ sung về quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể sau khi chết nêu trên, BLDS năm 2005 còn quy định quyền nhận bộ phận cơ thể người tại Điều 35: Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác chỉ để chữa bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể của người khác vì mục đích thương mại.
4.5 Quyền xác định lại giới tính
Việc chuyển đổi giới tính là vấn đề mới và rất phức tạp về mặt xã hội, chưa có tính phổ biến và chưa phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội ở nước ta hiện nay. Do đó cần phải có thời gian để tìm hiểu thực tế và nghiên cứu thêm kinh nghiệm các nước khác trên thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số địa phương (ví dụ như Thành phố Hồ Chí Minh) đã tiến hành phẫu thuật nhằm xác định lại giới tính. Một yêu cầu bức xúc được đặt ra về việc phải có pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. Đáp ứng thực tiễn đó, Điều 36 BLDS năm 2005 đã quy định việc xác định lại giới tính như sau:
“Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, BLDS năm 2005 quy định việc xác định lại giới tính của một người chỉ được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác, mà cần có sự can thiệp của y học, nhằm xác định rõ về giới tính, chứ không quy định quyền thay đổi giới tính một cách tuỳ tiện. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tình hình xã hội và truyền thống đạo đức của nước ta hiện nay.
Quyền đối với họ, tên là quyền dân sự gắn với nhân thân của mỗi cá nhân. Quyền thay đổi họ tên là quyền dân sự cơ bản của mỗi cá nhân. BLDS  năm 2005 quy định cá nhân có quyền được xác định lại giới tính. Do đó, việc thay đổi lại họ, tên của cá nhân sau khi cá nhân đó đã được xác định lại giới tính (ví dụ như từ nam chuyển sang nữ) để tránh việc gây nhầm lẫn trong cuộc sống là yêu cầu thực tế, chính đáng của công dân. Từ đó, quyền thay đổi họ, tên trong trường hợp cá nhân đã thay đổi giới tính như đã nêu trên được bổ sung thêm tại Điều 27 BLDS  năm 2005 là: Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong trường hợpcá nhân đó đã được xác định lại giới tính.
5. Nơi cư trú (Điều 52)
Điều 48 BLDS năm 1995 quy định: “Nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú”. Khái niệm về nơi cư trú trong BLDS năm 1995 mang nặng ý nghĩa quản lý về mặt hành chính, không phù hợp dưới góc độ dân sự. Bởi vậy, BLDS năm 2005 đã quy định nơi cư trú phù hợp với quan hệ dân sự, lấy tiêu chí quan trọng nhất để xác định nơi cư trú của cá nhân, đó là nơi cá nhân thường xuyên sinh sống.
6. Quy định về hộ gia đình
Cũng như BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 quy định 4 loại chủ thể trong đó có hộ gia đình. Khác với BLDS năm 1995, hộ gia đình ngoài yếu tố là các thành viên có tài sản chung, BLDS năm 2005 còn bổ sung thêm một điều kiện nữa là các thành viên phải cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định.
Bên cạnh đó, pháp luật về đất đai và pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng đã quy định hộ gia đình là một trong những chủ thể của quan hệ giao đất, giao rừng, cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, tài sản chung của hộ gia đình ngoài những loại tài sản đã được quy định trong BLDS năm 1995 như: tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập nên, được tặng cho chung, tài sản mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ, quyền sử dụng đất hợp pháp, BLDS năm 2005 còn bổ sung thêm các loại tài sản khác cũng là tài sản chung của hộ gia đình như: quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình cho phù hợp với pháp luật về đất đai, pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng hiện hành. Ngoài ra, tài sản được thừa kế chung là tài sản chung của hộ gia đình cũng đã được bổ sung thêm vào Điều 108 - Tài sản chung của hộ gia đình trong BLDS năm 2005.
BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình (Điều 109). Theo quy định mới này thì các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản chung là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình được quy định chặt chẽ hơn tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Nếu so sánh với các tài sản khác, thì tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình thường có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của cả hộ gia đình nên việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình thì cần phải được tất cả các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Đối với các loại tài sản chung khác của hộ gia đình thì việc định đoạt tài sản này chỉ cần được đa số thành viên của hộ gia đình từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
7. Về giao dịch dân sự
7.1.Về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Khoản 2 Điều 122 quy định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Đây là sửa đổi quan trọng so với quy định tại Khoản 4, Điều 131  BLDS  năm 1995 vì Khoản 2, Điều 122 BLDS  năm 2005 khẳng định:  chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định thì hình thức giao dịch mới là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Quy định này sẽ hạn chế khả năng giao dịch dân sự bị tuyên là vô hiệu chỉ vì có vi phạm về hình thức giao dịch trong mọi trường hợp.
7.2. Về hình thức giao dịch dân sự. Điều 124 BLDS năm 2005 bổ sung quy định:”Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản” cho phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện nay.
PHẦN THỨ HAI
TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU

Phần này có nhiều quy định được giữ BLDS năm 1995. Bên cạnh đó, có một số điểm sửa đổi, bổ sung so với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995:
1. Về tài sản ( Điều 163)
Điều 163 của BLDS năm 2005 quy định: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Như vậy, “vật có thực” theo quy định của BLDS năm 1995 đã được sửa thành “vật”. Việc bỏ cụm từ “có thực” làm cho khái niệm “vật” được hiểu theo nghĩa rộng hơn: bao gồm cả vật đang có và sẽ được hình thành trong tương lai. Trên thực tế có nhiều vật đang được hình thành nhưng đã là đối tượng của giao dịch. Ví dụ: công trình đang được xây dựng, tàu thuyền đang đóng hoặc sẽ đóng, vụ lúa, hoa quả sẽ có trong vụ thu hoạch sắp tới…Quy định như vậy sẽ phù hợp hơn, đáp ứng được nhu cầu về giao dịch trong nền kinh tế thị trường.
2. Về đăng ký quyền sở hữu tài sản (Điều 167)
Điều 167 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản. Quyền sở hữu đối với động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp  pháp luật có quy định khác”.
Điều 167 BLDS năm 2005 đã sửa Điều 174 BLDS năm 1995 vì Điều này quy định quá khái quát, gây khó khăn trong việc áp dụng vì chưa quy định rõ những loại tài sản nào được đăng ký.
Cơ chế đăng ký quyền sở hữu tài sản là một cơ chế nhằm công khai hoá quyền sở hữu của chủ thể. Khi quyền sở hữu đã thuộc về một chủ thể thì về nguyên tắc, tất cả các chủ thể khác phải tôn trọng quyền sở hữu của chủ thể đó. Để mọi người biết về quyền sở hữu của mình thì phải có cơ chế công khai quyền này. Ở nhiều nước trên thế giới áp dụng hai cơ chế riêng về cách biểu thị công khai đối với động sản và bất động sản. Đối với động sản: chiếm hữu là cách biểu thị công khai quyền sở hữu. Đối với bất động sản: đăng ký là biện pháp công khai hoá các quyền về bất động sản.
Như vậy, ở Việt Nam quy định tại Điều 167 của BLDS năm 2005 là phù hợp với thông lệ thế giới: đối với bất động sản thì đăng ký là biện pháp công khai hoá quyền sở hữu; đây là một cơ chế pháp lý nhằm làm cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch, bảo đảm sự an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch về bất động sản. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản trong việc thực hiện quyền sở hữu và một số quyền khác đối với bất động sản. Còn đối với động sản thì chiếm hữu là cách biểu thị công khai quyền sở hữu, chỉ trừ những trường hợp mà pháp luật có quy định rõ là đối với loại tài sản đó áp dụng chế độ đăng ký. BLDS quy định khái quát như vậy, còn những vấn đề cụ thể như trình tự, thủ tục đăng ký, cơ quan đăng ký…sẽ do Luật đăng ký bất động sản quy định. Hiện nay Luật đăng ký bất động sản đang được soạn thảo và sẽ được ban hành trong thời gian tới.
3. Về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản (Điều 168)
Điều 168 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, Điều 168 BLDS năm 2005 là sự kế thừa các quy định của BLDS năm 1995 và phù hợp với một số văn bản pháp luật hiện hành (như Luật đất đai) về nguyên tắc đăng ký: đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của sự chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, nguyên tắc này bị loại trừ trong trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về hình thức sở hữu (Điều 172 và các Điều tại Chương XIII)
Điều 172 quy định: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,  các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Như vậy, các hình thức sở hữu theo quy định của BLDS năm 2005 là 6 hình thức sở hữu. Hình thức sở hữu toàn dân trong BLDS năm 1995 đã được sửa thành hình thức sở hữu nhà nước. Quy định như vậy nhằm làm rõ chủ thể của quyền sở hữu. Bổ sung thêm sở hữu của tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp vì hiện nay đã xuất hiện loại tổ chức này. Hình thức sở hữu hỗn hợp trong BLDS năm 1995 đã được đưa vào sở hữu chung thành một Điều (Điều 217).
5. Về chịu rủi ro về tài sản (Điều 166)
Đây là điều mới bổ sung nhằm khẳng định, về nguyên tắc, chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu huỷ hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu tài sản thì chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản, điều này không có vấn đề gì phải bàn. Trong trường hợp chủ sở hữu không trực tiếp chiếm hữu mà là người khác chiếm hữu tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu thì ai phải chịu rủi ro? Quy định của Điều 166 cho thấy: nếu pháp luật có quy định hoặc trong hợp đồng có thoả thuận cụ thể về việc chịu rủi ro thì thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo như thoả thuận trong hợp đồng; nếu không thì chủ sở hữu phải chịu rủi ro.
6. Về các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản (Điều 173)
Điều này đã giữ lại nội dung theo quy định của BLDS năm 1995 là “Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật” (khoản 1). Ngoài ra, Điều này được bổ sung thêm 4 khoản mới. Nội dung của các khoản mới được bổ sung là:
- Liệt kê các loại quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản gồm: quyền sử dụng đất; quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề; các quyền khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật (Khoản 2).
- Việc chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu tài sản cho người khác không phải là căn cứ để chấm dứt các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định tại khoản 2 Điều này  (Khoản 3).
- Các quyền đối với tài sản mà đã được quy định tại khoản 2 Điều 173 được bảo vệ theo cách thức bảo vệ quyền sở hữu (khoản 4).
- Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo thoả thuận và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
7. Về bảo vệ quyền, lợi ích của chủ sở hữu và của người chiếm hữu ngay tình
Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật (Điều 169). Đây là nguyên tắc chung, rất cơ bản trong việc bảo vệ quyền của chủ sở hữu. Tuy nhiên, ở đây cũng có một số ngoại lệ. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì lợi ích của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình sẽ được giải quyết như thế nào. BLDS năm 2005 đã giải quyết vấn đề này thông qua các quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình ( Điều 257) và quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình (Điều 258)
Đây là hai điều mới được bổ sung nhằm bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời bảo vệ được lợi ích của người chiếm hữu ngay tình. Cách thức bảo vệ người chiếm hữu ngay tình có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào tài sản là động sản hay bất động sản, có đăng ký quyền sở hữu hay không đăng ký quyền sở hữu.
Điều 257 quy định: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Điều 258 quy định: Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

PHẦN THỨ BA
NGHĨA VỤ DÂN SỰ VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Sau gần 10 năm thực hiện (1995 – 2005), các quy định của Bộ luật dân sự về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khẳng định quyền tự do hợp đồng, tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các giao lưu dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay, các quy định này cũng phần nào bộc lộ những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Chế định hợp đồng trong BLDS năm 1995 chủ yếu là điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng dân sự. Hạn chế này xuất phát từ việc phân biệt hai hệ thống pháp luật về hợp đồng: hợp đồng dân sự (do Bộ luật dân sự điều chỉnh) và hợp đồng kinh tế (do Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật Thương mại điều chỉnh). Việc phân biệt này đã làm cho các quy định pháp luật về hợp đồng chồng chéo, trùng lắp, nhiều khi mâu thuẫn nhau, gây ra rất nhiều khó khăn trong thực tế áp dụng và không bảo vệ được tuyệt đối quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng.
Nhằm khắc phục các hạn chế nêu trên, chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự trong BLDS năm 2005 đã được sửa đổi theo hướng các nguyên tắc, các quy đinh chung về hợp đồng được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự, kinh tế hay thương mại. Mặt khác, nhiều quy định về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự được sửa đổi, bổ sung theo quan điểm tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, thoả thuận của các bên, kết hợp với việc đề cao nguyên tắc tự chịu trách nhiệm của các bên về cam kết, thỏa thuận của mình.
1. Các quy định về nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự (từ Điều 280 đến 317)
1.1. Về khái niệm nghĩa vụ dân sự (Điều 280): BLDS năm 2005 quy định cụ thể hơn khái niệm nghĩa vụ dân sự so với BLDS năm 1995, theo đó, nghĩa vụ dân sự không chỉ là việc phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác mà còn bao gồm cả việc phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá khác.
1.2. Về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Điều 290 quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo đó bên có nghĩa vụ trả tiền phải thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thoả thuận, nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi của số nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác. So với BLDS năm 1995, BLDS mới không quy định bắt buộc trong luật đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền Việt nam mà để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành khác quy định nhằm đảm bảo sự linh hoạt trong giao dịch dân sự.
1.3. Về việc chấm dứt nghĩa vụ dân sự do hết thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Điều 383 quy định về việc chấm dứt nghĩa vụ dân sự do hết thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự thay thế Điều 389 cũ. Theo BLDS năm 1995 thì khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt, tuy nhiên điểm mới của BLDS năm 2005 là chỉ khi thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự hết thì nghĩa vụ dân sự mới chấm dứt mặc dù có thể thời hiệu khởi kiện đã hết.
1.4. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Điều 307 BLDS mới quy định rõ hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. BLDS cũng quy định rõ trách nhiệm của người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại ngoài việc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai.
2. Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 318 đến Điều 373)
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thể hiện các quan điểm cơ bản sau đây:
2.1. Xác định đúng bản chất của các biện pháp bảo đảm, từ đó BLDS năm 2005 không quy định phạt vi phạm là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, mà các bên có thể thỏa thuận về phạt vi phạm là một trong các nội dung của hợp đồng (khoản 7 Điều 402); phân biệt cầm cố và thế chấp tài sản căn cứ vào một tiêu chí cơ bản, đó là trong trường hợp cầm cố, bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ; trong trường hợp thế chấp, bên thế chấp được giữ tài sản thế chấp. Sự thay đổi này nhằm tránh các khó khăn khi phân biệt động sản, bất động sản và đơn giản hoá các quy định về cầm cố, thế chấp. Nhằm giảm sự khác biệt so với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, BLDS quy định bảo lãnh là đồng thời chuyển bảo lãnh bằng tài sản cụ thể thành cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba. Từ đó, sẽ không còn quy định về bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2003, mà được chuyển thành thế chấp quyền sử dụng đất và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ không điều chỉnh đăng ký bảo lãnh.
2.2. Nhiều quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được sửa đổi, bổ sung theo quan điểm tôn trọng quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, thoả thuận của các bên, kết hợp với việc đề cao nguyên tắc tự chịu trách nhiệm của các bên về cam kết, thỏa thuận của mình.
Quan điểm nêu trên được cụ thể hoá rõ nét trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh, tạo ra khả năng cho phép các bên linh hoạt hơn khi xử lý các tình huống phát sinh trong thực tế, mà thông thường pháp luật không thể dự liệu hết được, cụ thể như sau:
Các bên được thỏa thuận về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa, có thể bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hiện tại và nghĩa vụ trong tương lai và mở rộng khả năng dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ.
Các bên được cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu giá trị tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng cầm cố, thế chấp lớn hơn tổng giá trị các khoản nợ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, về nguyên tắc mọi tài sản đều có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm bằng quyền sử dụng đất. Từ đó, tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có vào thời điểm giao kết hoặc sẽ có trong tương lai, tài sản hữu hình, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tế trong khi nguồn tài sản dùng để bảo đảm còn hạn chế.
2.3. BLDS thể hiện quan điểm về việc cầm cố, thế chấp tuy có hạn chế một số quyền của bên cầm cố, bên thế chấp đối với tài sản bảo đảm, nhưng không vì thế mà làm đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của họ. Từ đó, một số quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đã được sửa đổi cơ bản, ví dụ: bên thế chấp được bán tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp (khoản 3, 5 Điều 349). Đồng thời, BLDS cũng đưa ra cơ chế để bên nhận thế chấp vẫn thu hồi được nợ.
Ngoài ra, BLDS đã tôn trọng quyền của các bên trong việc xử lý tài sản bảo đảm, phù hợp với yêu cầu thực tế, đó là các bên có quyền thoả thuận về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm; nếu không thoả thuận được thì bán đấu giá.
2.4. Nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch của các quan hệ về giao dịch bảo đảm, BLDS quy định các giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (Điều 323, Điều 325). Bộ luật pháp điển hóa các quy định đã được thực tế kiểm nghiệm và có hiệu quả tích cực đối với quá trình đẩy mạnh đầu tư vốn trong và ngoài nước. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm mục tiêu chủ yếu là cung cấp thông tin cho  mọi người có nhu cầu tìm hiểu trước khi quyết định tiến hành các giao dịch có liên quan đến tài sản, đồng thời, qua đó xác lập thứ tự ưu tiên thanh toán khi tài sản bảo đảm được xử lý để thực thanh toán nghĩa vụ.
3. Các quy định về  Hợp đồng dân sự (từ Điều 388 đến Điều 593)
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp đồng dân sự thể hiện quan điểm cơ bản, đó là xây dựng chế định hợp đồng trong BLDS thành nền tảng cho pháp luật về hợp đồng nói chung, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Trong trường hợp pháp luật chuyên ngành về hợp đồng cụ thể có quy định riêng, thì ưu tiên áp dụng các quy định riêng đó. Vì vậy, phạm vi áp dụng của các quy định về hợp đồng dân sự trong BLDS được mở rộng, áp dụng chung cho các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế như hiện nay. Cũng chính vì thế, kể từ ngày BLDS có hiệu lực (ngày 01.01.2006) Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực.
Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự được sửa đổi để phù hợp với các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
3.1.Tôn trọng quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được thoả thuận về hình thức, nội dung của hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm.
BLDS  năm  2005 xác định thời điểm giao kết hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu lực của cam kết, thỏa thuận giữa các bên, không phụ thuộc vào yếu tố hình thức, thủ tục của hợp đồng. Xuất phát từ đó, BLDS quy định nguyên tắc chung đó là hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Thời điểm giao kết hợp đồng miệng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản (Điều 404).
Về nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm giao kết nêu trên (Điều 405). Tuy nhiên cần lưu ý đó là các bên có thể thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, ví dụ: Luật Đất đai quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp là thời điểm đăng ký.
3.2.  Hợp đồng dân sự vô hiệu
Mục 7 BLDS năm 2005 không quy định các trường hợp hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, mà viện dẫn áp dụng những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138, vì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự. Nhằm khắc phục tình trạng nhiều hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu một cách không cần thiết, BLDS năm 2005 khẳng định hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ khi pháp luật có quy định cụ thể (Điều 401) và xác định vô hiệu trong mối quan hệ giữa hợp đồng chính, hợp đồng phụ (Điều 410). Đồng thời, bổ sung trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411).
3.3. Thực hiện hợp đồng (từ Điều 412 đến Điều 422)
Đây là một trong những giai đoạn quan trọng của hợp đồng, vì mục đích của các bên có đạt được hay không phụ thuộc vào vấn đề hợp đồng được thực hiện tốt hay không. Do đó, khi thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân theo các nguyên tắc được quy định tại Điều 412 BLDS. Ngoài ra, BLDS bổ sung quyền cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ (Điều 416), thực hiện hợp đồng có thỏa thuận về phạt vi phạm (Điều 422).
3.4. Về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự
Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu được áp dụng theo  Điều 136 BLDS, vì hợp đồng là một loại của giao dịch dân sự. Ngoài ra, BLDS bổ sung thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm (Điều 427).
3.5. Về đối tượng của hợp đồng mua bán: Điều 429 quy định: “đối tượng của hợp đồng mua bán là tài sản được phép giao dịch”, theo quy định của Điều 163 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. BLDS năm 1995 quy định đối tượng của hợp đồng mua bán chỉ có thể là vật và quyền tài sản. Do đó, BLDS lần này mở rộng và quy định rõ hơn về đối tượng của hợp đồng mua bán so với BLDS năm 1995.
3.6. Về thời điểm chuyển quyền sở hữu: Điều 432 BLDS năm 1995 quy định: “Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển giao cho bên mua kể từ thời điểm bên mua nhận tài sản…”. Điều 439 BLDS năm 2005 sửa đổi theo hướng quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó.  Việc quy định như vậy đã mở rộng hơn đối tượng tiếp nhận tài sản, có thể là chuyển giao cho chính bên mua hoặc cho bên được bên mua uỷ quyền nhận, mặt khác cũng là để phù hợp với  thực tế hoạt động thương mại và quy định của Luật Thương mại về vấn đề thời điểm chuyển quyền sở hữu. Bộ luật cũng bổ sung quy định trong trường hợp tài sản mua bán chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên bán.
3.7.Về hình thức của hợp đồng mua bán nhà ở: Điều 450 quy định: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, BLDS năm 2005 đã mở rộng hơn so với BLDS năm 1995, cho phép trong một số trường hợp nếu pháp luật quy định không nhất thiết phải bằng văn bản thì các bên có thể tự do thoả thuận theo các hình thức khác. Theo BLDS năm 1995 thì hình thức của hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
3.8. Về vấn đề bán đấu giá tài sản: Điều 456 quy định “tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý muốn của chủ sở hữu hoặc pháp luật có quy định” như vậy, so với BLDS năm 1995, BLDS mới cho phép tất cả các cá nhân, tổ chức có quyền bán đấu giá tài sản của mình, không nhất thiết phải là “cơ quan, tổ chức do pháp luật quy định” như BLDS năm 1995.
3.9.Về vấn đề họ, hụi, biêu, phườngđược quy định tại Điều 479: đây là một vấn đề mới được bổ sung vào BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ thực tế đang diễn ra trong đời sống dân sự mà lâu nay Toà án chưa có cơ sở pháp lý để giải quyết. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp nên BLDS chỉ quy định mang tính nguyên tắc trên cơ sở hụi, họ là quan hệ tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau không nhằm mục đích kinh doanh, Nhà nước nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi. Những vấn đề cụ thể sẽ do các cơ quan hữu quan hướng dẫn thực hiện.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng(từ Điều 604 đến Điều 630)
Việc sửa đổi, bổ sung phần này nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng, bảo vệ người bị thiệt hại và tăng cường trách nhiệm của người gây thiệt hại, từ đó đẩy mạnh việc phòng ngừa thiệt hại xảy ra. Trong phần này có một số sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
4.1.Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm (Điều 607). Quy định này là cần thiết nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp kéo dài và khó khăn trong việc thu thập, xác minh chứng cứ phục vụ việc xét xử.
4.2. BLDS  quy định các bên thỏa thuận về mức bồi thường, bù đắp tổn thất về tinh thần trong các trường hợp gây thiệt hại do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; nếu không thỏa thuận được, thì áp dụng mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với trường hợp xâm phạm về sức khỏe (khoản 2 Điều 609); mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu đối với trường hợp xâm phạm về tính mạng (khoản 2 Điều 610), mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu đối với trường hợp xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, uy tín (khoản 2 Điều 611).
4.3. BLDS 2005 bổ sung quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể (Điều 628) và mồ mả (Điều 629). Đây là những vấn đề mà thực tế đang có vướng mắc nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh. Theo đó, cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác xâm phạm thi thể, mồ mả người khác phải bồi thường thiệt hại, thiệt hại do xâm phạm thi thể, mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Đối với trường hợp xâm phạm thi thể người khác, ngoài khoản tiền bồi thường thiệt hại, người xâm phạm còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền đó. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. 
PHẦN THỨ TƯ
THỪA KẾ

Những nguyên tắc cơ bản về thừa kế không thay đổi  so với BLDS năm 1995. Tuy nhiên về nội dung một số điều được chỉnh sửa, bổ sung và làm rõ hơn để phù hợp và tính khả thi hơn.
1. Vấn đề chứng thực của Uỷ ban cấp xã, phường, thị trấn và chứng nhận của công chứng Nhà nước
Vấn đề chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn và  chứng nhận của công chứng Nhà nước  hầu như được đưa ra khỏi BLDS năm 2005. Do di chúc thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết nên dù rằng di chúc không có công chứng Nhà nước hay chứng thực của Uỷ ban cấp xã, phường, thị trấn nhưng nếu di chúc do chính tay họ viết nên thì vẫn được coi là hợp pháp nếu như họ tuân thủ những quy định tại Điều 653 BLDS năm 2005. Hơn nữa, đối với những người trên máy bay, trên tàu biển, trên các phương tiện giao thông,… hoặc là phạm nhân, họ có thể đưa cho người phụ trách chứng thực. Việc bỏ sự “độc quyền” trong chứng thực, chứng nhận của Uỷ ban các cấp và công chứng Nhà nước là bước cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc thi hành pháp luật.
2. Di sản (Điều 634): Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.  
Như vậy BLDS năm 2005 đã  bỏ khoản 2 Điều 637 cũ của BLDS năm 1995 là “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định của phần thứ năm của Bộ luật này”. Bởi vì, BLDS năm 2005 đã coi quyền sử dụng đất là một tài sản, và  tại  Điều 174 Bộ luật này cũng khẳng định đất đai thuộc bất động sản. Chính vì vậy,  việc bỏ quy định như khoản 2 trên đây  là hòan toàn phù hợp với các nội dung cụ thể của BLDS .
3. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (Điều 637):  tại Điều 640 BLDS năm 1995 đã được bổ sung nội dung nhằm làm rõ hơn phần trách nhiệm của  những người thừa kế chỉ phải gánh chịu “nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại”  và khẳng định rõ  từng người thừa kế cũng chỉ “…thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận”  với quy định mới còn mở rộng thêm “trừ trường hợp có thoả thuận khác” đó là, trong những trường hợp  người thừa kế có thể vì danh dự gia đình, tình nghĩa cha con, vợ chồng đã đứng ra chịu toàn bộ cho dù họ phải “bỏ tiền túi” của mình để thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại khi không có di chúc hoặc được giao nghĩa vụ thừa kế như quy định tại khoản 4 Điều 648; với quy định như vậy không bị bó và khống chế chỉ trong phạm vi di sản của người chết để lại.
4. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm (Điều 641): về nguyên tắc thì những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm thì không được quyền thừa kế của nhau; BLDS năm 2005 đã mở ra trường hợp ngoại lệ đối với thừa kế thế vị, nhằm mục đích bảo đảm quyền thừa kế của gia đình dòng họ và chuyển di sản của họ cho người thừa kế gần nhất của mình. Như vậy, trong trường hợp ông và bố chết cùng thời điểm thì cháu vẫn được thừa kế di sản của ông mình.

5. Từ chối nhận di sản (Điều 642):  đã thể hiện một cách nhân đạo nhằm bảo vệ quyền lợi của người thừa kế, trong trường hợp vì một lý do nào đó mà họ  chưa kịp bày tỏ ý chí của mình là nhận hay không nhận thừa kế thì sau sáu tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, họ vẫn không mất đi quyền được nhận thừa kế của mình.
6. Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước (Điều 644): về nguyên tắc không thay đổi, tuy nhiên có bổ sung về mặt nội dung, đó là “…sau khi đã  thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước” điều này đã bảo vệ được quyền lợi của các chủ nợ cũng như những người có quyền lợi có liên quan đến tài sản có liên quan.
7. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế (Điều 645):
Với quy định mới đã làm rõ hơn về  hai loại thời hiệu:
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế, bác bỏ quyền thừa kế;
-  Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Việc bổ sung quy định “thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản  của người chết để lại..”, đã xác định quyền về tài sản của các chủ nợ cũng như những người khác có liên quan đến di sản chỉ được bảo vệ trong thời hiệu là ba năm. Sau ba năm kể từ lúc mở thừa kế ( kể từ khi con nợ chết), nếu người có quyền không yêu cầu thì họ sẽ  bị mất quyền đó.
Việc quy định như vậy không chỉ đảm bảo được tính ổn định trong giao lưu dân sự của người thừa kế mà còn phân biệt giữa các loại thời hiệu với nhau đó là: thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế và bác bỏ quyền thừa kế là mười năm  và thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ là ba năm.
8. Quyền của người lập di chúc (Điều 648):  Ngoài những quyền quy định tại Điều 651 BLDS năm 1995: chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; chỉ định người giữ di chúc, quản lý di sản, người phân chia di sản thì quyền của  người lập di chúc không bị bó hẹp trong quyền  giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản nữa, mà người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ như chăm sóc cho bố, mẹ, ông, bà…hoặc có thể thoả thuận để thanh toán nghĩa vụ về tài sản cho mình vượt quá phần tài sản có của người lập di chúc để lại và được người thừa kế đồng ý.
9. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng (Điều 668) :  Di chúc chung của vợ chồng là loại di chúc đặc biệt được xác lập do hai người có tài sản chung hợp nhất, cùng định đoạt chung. BLDS năm 2005  đã sửa đổi hiệu lực của loại di chúc đặc biệt và phức tạp này cho phù hợp với tính chất và đảm bảo được trọn vẹn ý chí của hai người. Theo đó, di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết.

10. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác (Điều 680): Di sản của người chết để lại là nguồn gốc để phát sinh tranh chấp xảy ra giữa bố mẹ chồng với con dâu, giữa bố mẹ vợ với con rể  trong trường hợp người chồng hoặc người vợ chết trong giai đoạn đang giải quyết ly hôn tại Toà án. BLDS năm 2005 đã  xác định rõ hơn cho dù rằng vợ chồng đang có vấn đề không thể chung sống với nhau, có đơn kiện tại Toà xin ly hôn hay được Toà cho ly hôn nhưng chưa có hiệu lực pháp luật thì quyền thừa kế của người còn lại (nếu người kia chết) vẫn được bảo vệ. Điều 680 BLDS  năm 2005  quy định: “vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Toà án cho ly hôn bằng một bản án hoặc bằng Quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản”. Quy định này đã tháo gỡ nhiều sự thắc mắc và tránh được những vụ tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Hơn nữa, về lý luận thì quan hệ thừa kế của vợ và chồng được xác định trên cơ sở hôn nhân, vì vậy tại thời điểm mở thừa kế nghĩa là có một bên vợ hoặc chồng chết mà cuộc hôn nhân đó vẫn còn, thì người còn lại vẫn được hưởng di sản của người đã chết hay nói một cách khác là họ có quyền thừa kế của nhau. Quan hệ hôn nhân chỉ chấm dứt khi nào có Quyết định hoặc Bản án của Toà án đã có hiệu lực
11. Hạn chế phân chia di sản (Điều 686): Để phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, BLDS năm 2005  đã bổ sung đoạn 2 Điều 686: “trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc bên chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong thời hạn nhất định, nhưng không quá ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế”. Với thời hạn là ba năm không được chia di sản đã hạn chế được những người thừa kế vì đồng tiền mà  đánh mất đi tình cảm tốt đẹp của mình, đã bắt bố hoặc mẹ hoặc người thân của mình phải bán di sản (ví dụ như: ngôi nhà nhỏ có cửa hàng kinh doanh, hoặc máy móc là công cụ sản xuất) là phương tiện kiếm sống duy nhất của người thân để chia thừa kế.
12. Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế (Điều 687): Đây là một Điều hoàn toàn mới được đưa vào BLDS năm 2005 nhằm giải quyết sự bất cập trong thực tiễn. Có những vụ kiện đòi thừa kế xảy ra đến hàng chục năm  mà những người thừa kế vẫn yêu cầu chia di sản nhiều lần, trong khi khối di sản không chỉ đã bị biến đổi theo thời gian (được tôn tạo, sửa chữa) hoặc vì đập phá xây dựng mới, mà còn được mua đi bán lại nhiều lần. Quy định mới này đã giải quyết bằng cách không chia bằng hiện vật, mà thanh toán lại bằng tiền tại thời điểm mở thừa kế cho  những trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế. Đây là giải pháp tối ưu, không chỉ bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế mà còn tôn trọng tính ổn định trong giao dịch dân sự.
PHẦN THỨ NĂM
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

1. Những quy định chung:
1.1.Mở rộng chủ thể tham gia chuyển quyền sử dụng đất (Điều 688)
BLDS năm 2005 không chỉ quy định việc chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân  như BLDS năm 1995 mà còn bổ sung thêm chủ thể được chuyển quyền sử dụng đất là pháp nhân và các chủ thể khác (ví dụ: tổ hợp tác).
1.2. Mở rộng hình thức xác lập quyền sử dụng đất (Điều 688)
Theo quy định tại Điều 690 của BLDS năm 1995, hộ gia đình, cá nhân được xác lập quyền sử dụng đất dưới ba hình thức: được Nhà nước giao đất; được Nhà nước cho thuê đất; được nhận chuyển quyền sử dụng.
Theo quy định tại Điều 688 của BLDS năm 2005, cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập quyền sử dụng đất dưới bốn hình thức:
- Được Nhà nước giao đất;
- Được Nhà nước cho thuê đất;
- Được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất như (nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp chỉ mới có một trong các giấy tờ hợp lệ hoặc một số trường hợp khác quy định tại Điều 50 của Luật đất đai năm 2003);
- Được người khác chuyển quyền  sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai.
1.3. Tôn trọng sự thoả thuận về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất  (Điều 690)
Điều 694 của BLDS năm 1995 quy định: “Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cơ sở bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá của Chính phủ quy định”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 của Luật đất đai năm 1993 và Điều 56 của Luật đất đai năm 2003 thì giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá của Chính phủ quy định không áp trong việc chuyển quyền sử dụng đất.
Thực tế cho thấy, trong quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các tổ chức với nhau, giữa các hộ gia đình, cá nhân với nhau là quan hệ dân sự không ai áp dụng bảng giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định mà các bên thoả thuận giá chuyển nhượng đất theo giá thị trường tại địa phương đó tại thời điểm chuyển nhượng. Để phù hợp với Điều 56 của Luật đất đai năm 2003, Điều 690 của  BLDS năm 2005 quy định: “Giá chuyển quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định”.
1.4. Mở rộngquyền năng của người sử dụng đất
BLDS năm 1995 chỉ quy định người sử dụng đất có 5 quyền; quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. BLDS năm 2005 bổ sung thêm quyền cho thuê lại quyền sử dụng, quyền tặng cho quyền sử dụng đất và quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
2. Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
2.1. Bỏ quy định điều kiện chuyển đổi quyền sử dụng đất
2.2. Về  nghĩa vụ của bên chuyển đổi quyền sử dụng đất (Điều 695 )

Tại khoản 5 Điều 703 của BLDS năm 1995 quy định: “trong trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất thì bên được thanh toán số tiền chênh lệch do giá trị quyền sử dụng đất chuyển đổi cao hơn phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất đối với phần chênh lệch đó. Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1999 thì trong trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối cho nhau để phù hợp với điều kiện canh tác thì được miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, BLDS năm 2005 đã bỏ quy định về việc nộp thuế chuyển đổi quyền sử dụng đất nếu “bên được thanh toán số tiền chênh lệch do giá trị quyền sử dụng đất chuyển đổi cao hơn phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất đối với phần chênh lệch đó”. Bổ sung “nghĩa vụ của các bên chuyển đổi phải nộp lệ phí chuyển đổi”.
3. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
3.1. Bỏ quy định điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
3.2. Về nghĩa vụ của bên chuyển nhượng sử dụng đất (Điều 699)
Khoản 1 Điều 709 của BLDS năm 1995 quy định: “bên chuyển quyền sử dụng đất có nghĩa vụ xin phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Thực tế cho thấy, quy định này không hợp lý vì Luật đất đai đã cho phép người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất trong đó có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải xin phép mà chỉ phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.  Do đó, BLDS năm 2005 đã bỏ quy định này.
4. Hợp đồng thuê, thuê lại quyền sử dụng đất
4.1. Bổ sung thêm quyền cho thuê lại đất

4.2. Bỏ quy định về điều kiện cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất vì Luật đất đai không quy định điều kiện cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất;
4.3.  Về nghĩa vụ của bên thuê quyền sử dụng đất ( Điều 707)
Tại khoản 6 Điều 720 của BLDS năm 1995 quy định: “bên thuê quyền sử dụng đất không được cho người khác thuê lại quyền sử dụng đất”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998,  Luật đất đai năm 2003 đã cho phép người sử dụng đất được cho thuê lại đất. Do đó, BLDS năm 2005 đã bỏ quy định này để phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai.
5.Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
5.1.Bỏ quy định điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất.
5.2.Mở rộng phạm vi được thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 716)
Theo quy định của BLDS năm 1995 thì đất nông nghiệp chỉ được thế chấp tại Ngân hàng Việt Nam, tại các tổ chức tín dụng Việt Nam do Nhà nước cho phép thành lập. Đối với đất ở được thế chấp với các tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước. Thực tế cho thấy, quy định này không phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.BLDS  năm 2005 bỏ các quy định này vì , thế chấp quyền sử dụng đất ở đâu là quan hệ dân sự, là quyền của người sử dụng đất không nhất thiết phải thế chấptại Ngân hàng Việt Nam, tại các tổ chức tín dụng Việt Nam do Nhà nước cho phép thành lập .

5.3. Mở rộng quyền của bên thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 718)

Để tạo điều kiện cho bên thế chấp giá trị quyền sử dụng đất có thể thanh toán được nợ cho bên nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, BLDS năm 2005 quy định bên thế chấp quyền sử dụng đất có quyền: “Được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất nếu được bên nhận thế chấp đồng ý ”.
6. Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Nhằm tạo cơ chế thông thoáng trong việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, theo quy định của BLDS năm 2005 (khoản 2 Điều 730) thì tuy giá trị quyền sử dụng đã được góp vốn, nhưng bên góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vẫn “được quyền chuyển nhượng, để thừa kế phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật quy định khác”.
7. Thừa kế quyền sử dụng đất
7.1.Người được thừa kế quyền sử dụng đất (Điều 734)
Theo quy định tại điều 740 của BLDS  năm 1995 đối với đất nông nghiệp, người được thừa kế phải có điều kiện: Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sản xuất nông nghiệp; chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, để bảo đảm sự bình đẳng giữa những người thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp, Luật không quy định điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp. Do đó, BLDS năm 2005 không quy định điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp mà quy định những người thuộc hàng thừa kế đều được thừa kế đất nông nghiệp, cụ thể là: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất, được thuê đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai ”.
7.2. Thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình (Điều 735)
Theo quy định tại Điều 744 của BLDS năm 1995: “Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu trong hộ có thành viên chết thì các thành viên trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng đất do Nhà nước giao cho hộ đó; nếu trong hộ gia đình không còn thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất đó”.
Thực tế cho thấy, không phải tất cả các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp đều được Nhà nước giao đất. Một số hộ gia đình tuy được Nhà nước giao đất, nhưng họ vẫn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì họ có nhu cầu sử dụng đất do gia đình đông người thiếu đất sản xuất hoặc họ có vốn muốn đầu từ vào sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, theo quy định của Bộ luật dân sự thì quyền sử dụng đất cũng là di sản thừa kế, vì vậy, đã là di sản thì mọi người đều được thừa kế để bảo đảm sự bình đẳng. Do đó, Luật đất đai năm 2003, BLDS năm 2005 không quy định điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp mà quy định mọi người trong hàng thừa kế đều được hưởng thừa kế, cụ thể là : “Đối với trường hợp Nhà nước giao đất cho hộ gia đình, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
PHẦN THỨ SÁU
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

1. BLDS năm 2005 chỉ quy định những vấn đề cơ bản có tính chất nguyên tắc về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
BLDS năm 2005 chỉ quy định những vấn đề có tính chất dân sự chung nhất, những nguyên tắc cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Những vấn đề cụ thể khác không thuộc quan hệ dân sự (như trình tự thủ tục xác lập quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng mới, thủ tục chuyển giao công nghệ) sẽ được quy định trong các luật chuyên ngành (Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ) vì:
Thứ nhất, BLDS là luật chung trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng trên cơ sở tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, BLDS chỉ quy định những nguyên tắc chung, cơ bản nhất có tính chất định hướng;
Thứ hai, BLDS cần phải đảm bảo tính ổn định, do vậy để đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của thực tế xã hội, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ, thì các vấn đề cụ thể về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ cần được quy định tại các Luật chuyên ngành.
2. Về quyền tác giả
- Nội dung quyền tác giả: BLDS năm 2005 đã phân định rõ ràng hơn các quyền nhân thân và các quyền tài sản của tác giả so với BLDS năm1995.
- Các quy định về thời điểm phát sinh quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phân chia quyền của đồng tác giả, chuyển giao quyền tác giả, hợp đồng chuyển giao quyền tài sản (tại các điều 739, 740, 741, 742, 743) đã được thể hiện, khái quát hơn so với các quy định trước đây.
- Các quy định về nội dung các quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng của chủ sở hữu các quyền liên quan đến quyền tác giả (tại các điều 745, 746 và 747) được xác định cụ thể hơn nhằm phù hợp với quy định của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật, phù hợp với quy định tại Chương II của Hiệp định Thương mại Việt nam -  Hoa kỳ.
3. Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng
- Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp: BLDS năm 2005 đã mở rộng phạm vi đối tượng sở hữu công nghiệp (Điều 750). Cụ thể, đã quy định thêm các đối tượng: bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Về thuật ngữ : Thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hoá” được sử dụng trong quy định của BLDS năm 1995 đã được thay bằng thuật ngữ “nhãn hiệu” trong Điều 750 của BLDS năm 2005, thuật ngữ này cũng dùng để chỉ nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết. Thuật ngữ  “tên gọi xuất xứ hàng hoá” trong BLDS năm 1995 đã được thay bằng thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” trong BLDS năm 2005. Xét về bản chất, tên gọi xuất xứ hàng hoá là một dạng chỉ dẫn địa lý đặc biệt.
- Quyền đối với giống cây trồng: tại điều 750, quyền đối với giống cây trồng được quy định thành một đối tượng độc lập, không nằm trong nhóm các đối tượng sở hữu công nghiệp. Hiện nay, giống cây trồng đã được quy định bảo hộ trong Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên, vấn đề bảo hộ giống cây trồng được quy định trong BLDS. 
Như vậy, so với yêu cầu của các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, BLDS năm 2005 đã quy định đầy đủ hơn các đối tượng sở hữu công nghiệp và giống cây trồng.
4. Chuyển giao công nghệ (Điều 745 - Điều 748)
Để tránh chồng chéo, trùng lặp trong quy định giữa BLDS và Luật Chuyển giao công nghệ (hiện đang trong quá trình soạn thảo), các quy định về chuyển giao công nghệ trong BLDS năm 2005 được khái quát cao, quy định mang tính nguyên tắc về quyền chuyển giao công nghệ, đối tượng chuyển giao công nghệ, các công nghệ không được chuyển giao và hợp đồng chuyển giao công nghệ; các vấn đề cụ thể liên quan đến chuyển giao công nghệ sẽ do Luật Chuyển giao công nghệ quy định.
PHẦN THỨ BẢY
QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Phần thứ bảy “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của BLDS năm 2005 có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
1. Về khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 758): Điều này vẫn kế thừa Điều 826 của BLDS năm 1995 về các căn cứ để xác định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là chủ thể, căn cứ pháp lý và đối tượng của quan hệ. Tuy nhiên, điều luật mới đã làm rõ hơn một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, BLDS năm 2005 xác định rõ có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thay vì nói chung chung là có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia như trong Bộ luật dân sự cũ.
Thứ hai, về căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Điều luật mới đã xác định rõ trường hợp quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
2. Về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài (Điều 761): Điều luật mới bổ sung khoản 1 ‘‘Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch’’ để khẳng định rõ về nguyên tắc, căn cứ để xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là luật của nước mà người đó là công dân. So với quy định của BLDS năm 1995 thì việc bổ sung như vậy là phù hợp và có tính bao quát hơn.
3. Về quyền sở hữu tài sản (Điều 766): So với BLDS năm 1995 thì Điều này bổ sung thêm khoản 4: việc xác định quyền sở hữu tài sản đối với tàu bay dân dụng và tàu biển phải tuân theo pháp luật chuyên ngành về hàng không dân dụng và hàng hải nước CHXHCN Việt Nam để làm rõ thêm tính đặc thù của hai loại tài sản đặc biệt này, đồng thời phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật trong Bộ luật hàng hải và Luật Hàng không dân dụng.
4. Về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài và thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài (Điều 767 và 768): Đây là hai Điều mới hoàn toàn trong BLDS năm 2005. BLDS năm 1995 không có bất kỳ quy định nào về thừa kế có yếu tố nước ngoài, do đó khi có tranh chấp phát sinh, các Tòa án không có căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ kiện về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Khắc phục hạn chế này, BLDS năm 2005 đã dành hai Điều để quy định về thừa kế, đó là Điều 767 (thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài) và Điều 768 (thừa kế theo di chúc), cụ thể như sau:
Thứ nhất, về thừa kế theo pháp luật, về nguyên tắc việc thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Riêng quyền thừa kế đối với bất động sản, phù hợp với thông lệ quốc tế, khoản 2 Điều 767 quy định quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản. Về vấn đề di sản không có người thừa kế, Điều 767 phân biệt hai trường hợp: đối với bất động sản thì thuộc về Nhà nước nơi có bất động sản; đối với động sản thì thuộc về Nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch. Đây cũng là cách giải quyết trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà chúng ta đã ký với các nước;
Thứ hai, về thừa kế theo di chúc, Điều 768 BLDS năm 2005 quy định năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân; hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc.
5. Về hợp đồng dân sự: về hình thức của hợp đồng BLDS năm 2005 quy định thành 1 điều riêng (Điều 770). Điều này kế thừa khoản 1 Điều 834 của BLDS năm 1995, đồng thời bổ sung thêm khoản 2: ‘‘Hình thức của hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo pháp luật CHXHCN Việt Nam’’.
Ngoài ra, để thích ứng với sự phát triển của các phương thức giao kết hợp đồng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm một Điều về giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt (Điều 771), theo đó, luật áp dụng trong trường hợp này là “luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng”. Thời điểm giao kết của hợp đồng vắng mặt được xác định theo “pháp luật của nước của bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời chấp nhận của bên được đề nghị giao kết hợp đồng’’.
V. TỔ CHỨC THI HÀNH
Để thi hành BLDS năm 2005, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Dân sự, trong đó giao Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm:
1.     Tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức việc rà soát các quy định của pháp luật về dân sự hiện hành để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới hoặc đề nghị Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, bảo đảm hiệu lực của Bộ luật Dân sự từ ngày 01/01/2006.
2.     Phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật Dân sự trong cán bộ, công chức và nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Bộ luật Dân sự trong bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan.
Bộ Tư pháp đang khẩn trương phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng kế hoạch thi hành Nghị quyết của Quốc hội, góp phần đưa Bộ luật Dân sự năm 2005 vào cuộc sống.


LIKE and Share this article: :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

 

Tổng số lượt xem trang

Blogger news

Blogroll

About